(Ghi lại cuộc trò chuyện cùng anh Tường Thắng - phóng viên trang web VNExodux)
Trần Khải Thanh Thuỷ
Phóng viên: - Hiện tại tình hình chị thế nào?
TKTT: - Cám ơn anh, cơ quan an ninh vẫn tiếp tục cho mời tôi lên để làm rõ một số vụ việc?
- Còn vụ việc gì nữa hả chị?
- À, việc vặt lá diệt hoa ấy mà, họ không muốn những người làm công việc vạch lá, tìm sâu như tôi tồn tại. Họ sợ tôi vạch được cả đám lá ra thì những con sâu làm rầu nồi canh đất nước như họ sẽ bị tòi ra. Một con sâu đủ để đổ đi cả nồi canh ngọt nữa là "Nồi canh" của Việt Nam do lãnh đạo Việt Nam chế biến, lúc nhúc những sâu là sâu, từ 15 con sâu trong bộ chính trị, tới 150 sâu uỷ viên trung ương, rồi các sâu đầu ngành, đầu thành, đầu tỉnh, sâu trắng, sâu đen, sâu xanh, sâu xám, sâu róm, bọ nẹt v.v... kinh lắm. Nếu thế giới nhìn thấy thì những con sâu bự này hết đường sống, vì sớm hay muộn cũng sẽ bị đập chết, di nát, đè bẹp, nên họ phải ra sức chặn việc làm của tôi lại, không cho tôi tiếp tục công việc vạch lá tìm sâu ấy nữa.
- Theo chị Nguyễn Vũ Bình, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn bị bắt vì lý do gì?
- Vì dám nói và viết sự thật thôi. Cụ thể Nguyễn Vũ Bình viết bài: Việt Nam và con đường phục hưng đất nước, phân tích rất rõ sự lãnh đạo yếu kém, bảo thủ của đảng đẻ ra một lô những tiêu cực: -kinh tế bị đè nén, chính trị bị khủng hoảng, đạo đức xuống cấp, phân cách giàu nghèo tăng, sau đó là đơn xin thành lập đảng tự do dân chủ. Còn Lê Chí Quang thì viết bài: hãy cảnh giác với bắc triều... và Phạm Hồng Sơn thị dịch tài liệu: "thế nào là dân chủ trong web side của Mỹ.
- Nghĩa là chỉ nói sự thật phải không chị?
- Vâng, nhưng bản chất của những kẻ dối trá lại rất sợ sự thật. Để bịt miệng tiếng nói của cánh trí thức trẻ chúng đã đánh họ bằng những bài bản rất khốn nạn:
- Cụ thế là sao thưa chị?
- Thì đấy, điều 69 hiến pháp, điều 19 trong công ước quốc tế, điều 71, 73 v.v đều nói rõ công dân Việt Nam được hưởng những quyền gì, nhưng thực tế, họ lại bị bắt giam vô điều kiện. Cụ thể trường hợp Lê chí Quang bị bắt trên đường đến quán nét, bắt mà không hề thông báo cho mẹ đẻ hoặc người nhà biết, trong khi Quang lại đang uống thuốc chữa viêm cầu thận, làm cả nhà lo cuống lên, đặc biệt là mẹ đẻ của Quang suy sụp nặng nề, cho đến đúng 2 tuần sau mới nhận được thông báo qua bưu điện là Quang đang bị giam giữ tại trạm giam B14 Thanh Liệt. Sau đó tiến hành xử kín, xử chui, không cho ai vào, trừ mẹ đẻ. Đến mức mẹ Quang phải bảo: "Kể cả tôi chửa hoang nó cũng có bố chứ, tôi có tự đẻ ra nó được đâu mà sao không cho bố nó vào"?... Rồi gán tội làm gián điệp để kết tội 4 năm liền. Vâng, đấy chính là bài bản đê tiện khốn nạn của đảng cộng sản mà tôi tin khắp gầm cầu này, kể cả ở các nước châu Phi đói nghèo lạc hậu cũng không có được.
- Trở lại chuyện của chị, và chuyện của luật sư Lê thị Công Nhân, tại sao chị cũng nói thật, viết thật, và chị Nhân cũng là thành viên của đảng Thăng Tiến mà cả hai không bị bắt vậy?
- Vâng. tôi nghĩ ngoài lý do trong nước phong trào dân chủ phát triển mạnh hơn, còn một lý do chính khiến cả hai chúng tôi thoát khỏi nanh vuốt của cộng sản là tấm lòng của bà con Việt Kiều ở Hải ngoại. Bằng sức mạnh tinh thần thông qua những nỗi đau có thực mà đảng cộng sản đã gây cho họ và gia đình bao nhiêu năm qua, họ vừa đùm bọc che chắn, vừa la hét kêu gào bắt đảng cộng sản phải chùn tay trước tội ác, đặc biệt với một người cầm bút như tôi, am hiểu luật như Nhân. Vì thế chị em tôi ý thức rõ là mình đang mắc nợ bà con Việt Kiều rất nhiều, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần. Bình thường công việc viết văn làm báo của tôi vốn đã như người làm xiếc trên dây, bây giờ dây vào đảng cộng sản càng nguy hiểm gấp bội phần, vì không phải làm xiếc trên sợi dây bình thường mà trên chính sợi dây thòng lọng của đảng nên bất cứ lúc nào đảng cũng có thể xiết chặt dây lại để tôi rơi tự do từ trên cao xuống vực thẳm của đảng, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp... Nhờ có 3 triệu bà con Việt kiều, 3 triệu cổ họng la lớn bắt đảng không được thít sợi dây lại, mà còn giơ 6 triệu cánh tay ra để đỡ khi tôi ngã... để tôi không bị rơi vào ngục tù, vực thẳm của Đảng.
- Vâng, theo Tường Thắng được biết thì cũng rất nhiều trường hợp được bà con giúp như thế nhưng không viết được nhiều như chị, hoặc không dám nói rõ như chị, thậm chí còn buông bút, tắt tiếng vì bị chính những người trong gia đình sợ hãi, ngăn cấm.
- Tôi chỉ nghĩ tôi không có quyền buông bút vào lúc này, nghĩa là không thể xuống mặt đất được mà còn phải tiếp tục chinh phục đỉnh cao trí tuệ, đỉnh cao nhân cách, không phải để biểu diễn cho mọi người xem, mà giúp bà con vạch mặt đảng cộng sản thối nát đê hèn, tham quyền cố vị, cam tâm đưa đất nước vào địa vị nhục nhã, đói nghèo này, đặc biệt là với một nửa đất nước là miền Nam ruột thịt.Chưa bao giờ tôi cảm thấy thương họ như lúc này, và cũng chưa bao giờ tôi hiểu rõ về họ như lúc này. Vẫn biết sau năm 1975 cộng sản vào, ngoài việc cướp bóc thả phanh, còn cố tình gieo rắc cho họ mầm mống của sự đói nghèo, tuyệt chủng. Sau giải phóng tưởng đất nước to đẹp đàng hoàng như thế nào, ai ngờ nhá bo bo, mỳ sợi, khoai hà, sái quai hàm. Đã tưởng "công lao" của đảng chỉ dừng lại ở chỗ: Kêu gọi toàn dân chiến đấu để "giải phóng miền Nam" và "phấn đấu cho đến ngày Nam Bắc nghèo như nhau". Ai ngờ đảng còn vào hùa với thần chết bóng đêm đẩy biết bao gia đình vào đường cùng không lối thoát. Là người của miền bắc xã hội chủ nghĩa, từng sống qua "đỉnh cao muôn trượng" mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc, tôi tưởng tự tôi đã rút ra một chân lý sống cho mình và mọi người là: "Phàm ai sinh ra là người Việt Nam, sống dưới thời đảng trị thì đều chịu cảnh đói nghèo khổ sở đến chết, chỉ không ai dám chết vì đói nghèo, khổ sở mà thôi". Ai ngờ qua lời kể của hàng loạt người tôi mới kịp làm quen ở paltalk (diễn đàn đấu tranh dân chủ tự do cho Việt Nam) tôi mới biết là mình nhầm, nhầm một cách thảm hại, rất nhiều người không chịu nổi chế độ khắc nghiệt của cộng sản mà phải tử tự cả nhà. Có những gia đình, quá tin tưởng ở cách mạng, hân hoan đón chờ chính phủ mới về tiếp quản Sài gòn, nhất định không chịu di tản, cũng không cho vợ con đi. Kết quả, bản thân bị hù doạ về tinh thần, còn về vật chất thì bị bỏ đói, phải bán nhẵn mọi đồ đạc của cải, nhà cửa mà cũng không đủ tiền để độ nhật qua ngày, đành lũ lượt rủ nhau nhập... hộ khẩu Diêm Vương. Cả nhà uống thuốc ngủ, hoặc cả nhà chui vào xe ô tô, tẩm xăng chết. Có nhà chồng đi học tập cải tạo, vợ ở nhà một nách 3 đứa con, cực qúa không làm gì được để sống, cuối cùng tìm đến cái chết đột ngột để cắt đứt mọi sự ràng buộc, dan díu với đời, để lại 3 đứa con côi cút, mà ông ngoại - vốn là một đại tá cách mạng - tập kết từ 1954, không thèm nhìn mặt, chỉ vì: "ai cho tụi bây lấy chồng là sĩ quan cộng hoà, bây giờ cực ráng chịu". Vâng xã hội chủ nghĩa ở miền Nam khi ấy quả là địa ngục trần gian. Thể nào mà bà con bỏ đi vãn.
- Thưa chị, chị bắt đầu nhận thức được điều này từ khi nào?
- Thực tế tôi nhận thức được điều ấy vào năm 1986, khi tôi theo đoàn nhà văn của trường viết văn Nguyễn Du khoá 4 vào Sài Gòn. Trước đó, đầu năm 1976, mẹ tôi vào gặp bác cả và tha lôi ra không còn thiếu thứ gì, nghĩa không đủ sức mà tha lôi vì nhà bác tôi rất giàu, cả 6 anh đều tham gia quân đội Việt Nam cộng hoà, một anh tử trận, 5 anh là thiếu tá, đại tá, có xe công để đi. Chỉ vì muốn gặp mẹ và các em sau 21 năm trời bặt tin mà bác tôi ở lại... Thế mà năm 1986 tôi vào, hòn ngọc viễn đông đã tiêu điều xơ xác, tầm mắt chỉ được nuôi dưỡng bằng cảnh nghèo, cái đói. Chị họ tôi, trước 1975 vốn là dược sĩ, chung tiền buôn thuốc tây với người bạn, trong nhà không thiếu thứ gì. Nào bếp gas, xe máy, điều hoà. Sữa uống thay nước, ngày ba bữa ăn hết sức đầy đủ sang trọng, thế mà khi cách mạng về. Hiệu thuốc bị đóng cửa, xe máy bán rẻ như cho vì không đủ tiền chạy xăng, gas cũng không có mà đốt, toalet hỏng không đủ tiền để sửa, sữa thì chẳng lấy đâu ra... trong khi điện cúp tối ngày. Bác cả tôi chạy đôn chạy đáo cũng không mua được thức ăn để đãi cháu. Cuối cùng phải vào tận công sở của cô con gái thứ 2, nhờ chị nói khó người nọ người kia, nhường cho một kg cá thu ướp lạnh theo tiêu chuẩn tem phiếu về để tiếp đãi cháu, phần bác chỉ ngồi ăn rau muống chấm nước mắm chanh. Sau bữa ăn, anh tôi bày tỏ: Thực chất ngày 30-4 bọn anh coi là ngày quốc hận, ngày mất nước, ngày miền Nam bị cưỡng chiếm... Thú thực, đang là giáo viên, bị nhồi nhét quan điểm tư tưởng của đảng, tôi không tin những lời anh nói, nhưng nhìn nét mặt đau buồn khổ sở của anh thì tôi tin, và đặc biệt đau lòng khi chị tôi kể chuyện 8 lần vượt biên mà không thoát. Cứ bị bắt, lại phải ngồi tù, ra khỏi tù lại lo lắng thu xếp bán đổ bán tháo mọi thứ trong nhà đi để dồn tiền đi tiếp. Nghèo đến mức, mỗi người chỉ còn vài ba bộ quần áo trên người và cả nhà xót lại một tấm chăn sờn rách. Khi cháu và em đến lại phải nhường.
- Thưa chị, chị tham gia viết báo hải ngoại từ khi nào?
(Ghi lại cuộc trò chuyện cùng anh Tường Thắng - phóng viên trang web VNExodux)
Trần Khải Thanh Thuỷ
Phóng viên: - Hiện tại tình hình chị thế nào?
TKTT: - Cám ơn anh, cơ quan an ninh vẫn tiếp tục cho mời tôi lên để làm rõ một số vụ việc?
- Còn vụ việc gì nữa hả chị?
- À, việc vặt lá diệt hoa ấy mà, họ không muốn những người làm công việc vạch lá, tìm sâu như tôi tồn tại. Họ sợ tôi vạch được cả đám lá ra thì những con sâu làm rầu nồi canh đất nước như họ sẽ bị tòi ra. Một con sâu đủ để đổ đi cả nồi canh ngọt nữa là "Nồi canh" của Việt Nam do lãnh đạo Việt Nam chế biến, lúc nhúc những sâu là sâu, từ 15 con sâu trong bộ chính trị, tới 150 sâu uỷ viên trung ương, rồi các sâu đầu ngành, đầu thành, đầu tỉnh, sâu trắng, sâu đen, sâu xanh, sâu xám, sâu róm, bọ nẹt v.v... kinh lắm. Nếu thế giới nhìn thấy thì những con sâu bự này hết đường sống, vì sớm hay muộn cũng sẽ bị đập chết, di nát, đè bẹp, nên họ phải ra sức chặn việc làm của tôi lại, không cho tôi tiếp tục công việc vạch lá tìm sâu ấy nữa.
- Theo chị Nguyễn Vũ Bình, Lê Chí Quang, Phạm Hồng Sơn bị bắt vì lý do gì?
- Vì dám nói và viết sự thật thôi. Cụ thể Nguyễn Vũ Bình viết bài: Việt Nam và con đường phục hưng đất nước, phân tích rất rõ sự lãnh đạo yếu kém, bảo thủ của đảng đẻ ra một lô những tiêu cực: -kinh tế bị đè nén, chính trị bị khủng hoảng, đạo đức xuống cấp, phân cách giàu nghèo tăng, sau đó là đơn xin thành lập đảng tự do dân chủ. Còn Lê Chí Quang thì viết bài: hãy cảnh giác với bắc triều... và Phạm Hồng Sơn thị dịch tài liệu: "thế nào là dân chủ trong web side của Mỹ.
- Nghĩa là chỉ nói sự thật phải không chị?
- Vâng, nhưng bản chất của những kẻ dối trá lại rất sợ sự thật. Để bịt miệng tiếng nói của cánh trí thức trẻ chúng đã đánh họ bằng những bài bản rất khốn nạn:
- Cụ thế là sao thưa chị?
- Thì đấy, điều 69 hiến pháp, điều 19 trong công ước quốc tế, điều 71, 73 v.v đều nói rõ công dân Việt Nam được hưởng những quyền gì, nhưng thực tế, họ lại bị bắt giam vô điều kiện. Cụ thể trường hợp Lê chí Quang bị bắt trên đường đến quán nét, bắt mà không hề thông báo cho mẹ đẻ hoặc người nhà biết, trong khi Quang lại đang uống thuốc chữa viêm cầu thận, làm cả nhà lo cuống lên, đặc biệt là mẹ đẻ của Quang suy sụp nặng nề, cho đến đúng 2 tuần sau mới nhận được thông báo qua bưu điện là Quang đang bị giam giữ tại trạm giam B14 Thanh Liệt. Sau đó tiến hành xử kín, xử chui, không cho ai vào, trừ mẹ đẻ. Đến mức mẹ Quang phải bảo: "Kể cả tôi chửa hoang nó cũng có bố chứ, tôi có tự đẻ ra nó được đâu mà sao không cho bố nó vào"?... Rồi gán tội làm gián điệp để kết tội 4 năm liền. Vâng, đấy chính là bài bản đê tiện khốn nạn của đảng cộng sản mà tôi tin khắp gầm cầu này, kể cả ở các nước châu Phi đói nghèo lạc hậu cũng không có được.
- Trở lại chuyện của chị, và chuyện của luật sư Lê thị Công Nhân, tại sao chị cũng nói thật, viết thật, và chị Nhân cũng là thành viên của đảng Thăng Tiến mà cả hai không bị bắt vậy?
- Vâng. tôi nghĩ ngoài lý do trong nước phong trào dân chủ phát triển mạnh hơn, còn một lý do chính khiến cả hai chúng tôi thoát khỏi nanh vuốt của cộng sản là tấm lòng của bà con Việt Kiều ở Hải ngoại. Bằng sức mạnh tinh thần thông qua những nỗi đau có thực mà đảng cộng sản đã gây cho họ và gia đình bao nhiêu năm qua, họ vừa đùm bọc che chắn, vừa la hét kêu gào bắt đảng cộng sản phải chùn tay trước tội ác, đặc biệt với một người cầm bút như tôi, am hiểu luật như Nhân. Vì thế chị em tôi ý thức rõ là mình đang mắc nợ bà con Việt Kiều rất nhiều, không chỉ về vật chất mà cả tinh thần. Bình thường công việc viết văn làm báo của tôi vốn đã như người làm xiếc trên dây, bây giờ dây vào đảng cộng sản càng nguy hiểm gấp bội phần, vì không phải làm xiếc trên sợi dây bình thường mà trên chính sợi dây thòng lọng của đảng nên bất cứ lúc nào đảng cũng có thể xiết chặt dây lại để tôi rơi tự do từ trên cao xuống vực thẳm của đảng, chết bất đắc kỳ tử, chết không kịp ngáp... Nhờ có 3 triệu bà con Việt kiều, 3 triệu cổ họng la lớn bắt đảng không được thít sợi dây lại, mà còn giơ 6 triệu cánh tay ra để đỡ khi tôi ngã... để tôi không bị rơi vào ngục tù, vực thẳm của Đảng.
- Vâng, theo Tường Thắng được biết thì cũng rất nhiều trường hợp được bà con giúp như thế nhưng không viết được nhiều như chị, hoặc không dám nói rõ như chị, thậm chí còn buông bút, tắt tiếng vì bị chính những người trong gia đình sợ hãi, ngăn cấm.
- Tôi chỉ nghĩ tôi không có quyền buông bút vào lúc này, nghĩa là không thể xuống mặt đất được mà còn phải tiếp tục chinh phục đỉnh cao trí tuệ, đỉnh cao nhân cách, không phải để biểu diễn cho mọi người xem, mà giúp bà con vạch mặt đảng cộng sản thối nát đê hèn, tham quyền cố vị, cam tâm đưa đất nước vào địa vị nhục nhã, đói nghèo này, đặc biệt là với một nửa đất nước là miền Nam ruột thịt.Chưa bao giờ tôi cảm thấy thương họ như lúc này, và cũng chưa bao giờ tôi hiểu rõ về họ như lúc này. Vẫn biết sau năm 1975 cộng sản vào, ngoài việc cướp bóc thả phanh, còn cố tình gieo rắc cho họ mầm mống của sự đói nghèo, tuyệt chủng. Sau giải phóng tưởng đất nước to đẹp đàng hoàng như thế nào, ai ngờ nhá bo bo, mỳ sợi, khoai hà, sái quai hàm. Đã tưởng "công lao" của đảng chỉ dừng lại ở chỗ: Kêu gọi toàn dân chiến đấu để "giải phóng miền Nam" và "phấn đấu cho đến ngày Nam Bắc nghèo như nhau". Ai ngờ đảng còn vào hùa với thần chết bóng đêm đẩy biết bao gia đình vào đường cùng không lối thoát. Là người của miền bắc xã hội chủ nghĩa, từng sống qua "đỉnh cao muôn trượng" mà cơm không đủ no, áo không đủ mặc, tôi tưởng tự tôi đã rút ra một chân lý sống cho mình và mọi người là: "Phàm ai sinh ra là người Việt Nam, sống dưới thời đảng trị thì đều chịu cảnh đói nghèo khổ sở đến chết, chỉ không ai dám chết vì đói nghèo, khổ sở mà thôi". Ai ngờ qua lời kể của hàng loạt người tôi mới kịp làm quen ở paltalk (diễn đàn đấu tranh dân chủ tự do cho Việt Nam) tôi mới biết là mình nhầm, nhầm một cách thảm hại, rất nhiều người không chịu nổi chế độ khắc nghiệt của cộng sản mà phải tử tự cả nhà. Có những gia đình, quá tin tưởng ở cách mạng, hân hoan đón chờ chính phủ mới về tiếp quản Sài gòn, nhất định không chịu di tản, cũng không cho vợ con đi. Kết quả, bản thân bị hù doạ về tinh thần, còn về vật chất thì bị bỏ đói, phải bán nhẵn mọi đồ đạc của cải, nhà cửa mà cũng không đủ tiền để độ nhật qua ngày, đành lũ lượt rủ nhau nhập... hộ khẩu Diêm Vương. Cả nhà uống thuốc ngủ, hoặc cả nhà chui vào xe ô tô, tẩm xăng chết. Có nhà chồng đi học tập cải tạo, vợ ở nhà một nách 3 đứa con, cực qúa không làm gì được để sống, cuối cùng tìm đến cái chết đột ngột để cắt đứt mọi sự ràng buộc, dan díu với đời, để lại 3 đứa con côi cút, mà ông ngoại - vốn là một đại tá cách mạng - tập kết từ 1954, không thèm nhìn mặt, chỉ vì: "ai cho tụi bây lấy chồng là sĩ quan cộng hoà, bây giờ cực ráng chịu". Vâng xã hội chủ nghĩa ở miền Nam khi ấy quả là địa ngục trần gian. Thể nào mà bà con bỏ đi vãn.
- Thưa chị, chị bắt đầu nhận thức được điều này từ khi nào?
- Thực tế tôi nhận thức được điều ấy vào năm 1986, khi tôi theo đoàn nhà văn của trường viết văn Nguyễn Du khoá 4 vào Sài Gòn. Trước đó, đầu năm 1976, mẹ tôi vào gặp bác cả và tha lôi ra không còn thiếu thứ gì, nghĩa không đủ sức mà tha lôi vì nhà bác tôi rất giàu, cả 6 anh đều tham gia quân đội Việt Nam cộng hoà, một anh tử trận, 5 anh là thiếu tá, đại tá, có xe công để đi. Chỉ vì muốn gặp mẹ và các em sau 21 năm trời bặt tin mà bác tôi ở lại... Thế mà năm 1986 tôi vào, hòn ngọc viễn đông đã tiêu điều xơ xác, tầm mắt chỉ được nuôi dưỡng bằng cảnh nghèo, cái đói. Chị họ tôi, trước 1975 vốn là dược sĩ, chung tiền buôn thuốc tây với người bạn, trong nhà không thiếu thứ gì. Nào bếp gas, xe máy, điều hoà. Sữa uống thay nước, ngày ba bữa ăn hết sức đầy đủ sang trọng, thế mà khi cách mạng về. Hiệu thuốc bị đóng cửa, xe máy bán rẻ như cho vì không đủ tiền chạy xăng, gas cũng không có mà đốt, toalet hỏng không đủ tiền để sửa, sữa thì chẳng lấy đâu ra... trong khi điện cúp tối ngày. Bác cả tôi chạy đôn chạy đáo cũng không mua được thức ăn để đãi cháu. Cuối cùng phải vào tận công sở của cô con gái thứ 2, nhờ chị nói khó người nọ người kia, nhường cho một kg cá thu ướp lạnh theo tiêu chuẩn tem phiếu về để tiếp đãi cháu, phần bác chỉ ngồi ăn rau muống chấm nước mắm chanh. Sau bữa ăn, anh tôi bày tỏ: Thực chất ngày 30-4 bọn anh coi là ngày quốc hận, ngày mất nước, ngày miền Nam bị cưỡng chiếm... Thú thực, đang là giáo viên, bị nhồi nhét quan điểm tư tưởng của đảng, tôi không tin những lời anh nói, nhưng nhìn nét mặt đau buồn khổ sở của anh thì tôi tin, và đặc biệt đau lòng khi chị tôi kể chuyện 8 lần vượt biên mà không thoát. Cứ bị bắt, lại phải ngồi tù, ra khỏi tù lại lo lắng thu xếp bán đổ bán tháo mọi thứ trong nhà đi để dồn tiền đi tiếp. Nghèo đến mức, mỗi người chỉ còn vài ba bộ quần áo trên người và cả nhà xót lại một tấm chăn sờn rách. Khi cháu và em đến lại phải nhường.
- Thưa chị, chị tham gia viết báo hải ngoại từ khi nào?
- Thực tình tôi thất nghiệp từ năm 2000. Giữ trang thư Hà Nội cho tờ Viet tide từ cuối 2002, nhưng còn non nớt ấu trĩ về chính trị lắm, vì ít nhiều cũng bị quan điểm đối lập của đảng đầu độc, nên sau một năm toà soạn buộc phải huỷ bỏ trang thư này, chỉ còn lại thư Sài Gòn...còn tôi thì tiếp tục thất nghiệp. Lại suốt ngày chúi đầu vào viết sách, in sách và bán sách, cháo loãng cầm hơi, nợ nần ngập cổ, cho đến khi được chú Nguyễn Thanh Giang giới thiệu với anh Nguyễn Hải ở San-Jose Mỹ... Ngay sau đó tôi thực sự bừng tỉnh sau vụ tự thiêu của chị Phạm thị Trung Thu (tháng 10-2005) rồi tận mắt chứng kiến nỗi khổ của người dân oan tại vườn hoa Mai Xuân Thưởng nên bập vào viết, viết với tất cả nỗi căm phẫn đau xót của mình trước những cảnh đời cơ cực ở Việt Nam, cơ cực hơn cả thời phong kiến, đế quốc mà không một cây bút nào- dù tài giỏi đến đâu cũng không thể chuyển tải nổi.
- Nếu cộng đồng hải ngoại có ý quyên góp cho chị sang Mỹ khoảng 1, 2 tuần chị có đi được không?
- Không phải tôi không đi được mà không được đi. Thứ nhất tôi nghĩ mình chưa làm gì được cho bà con mà được hưởng đặc quyền đặc lợi ấy, chỉ là có chút chữ nghĩa do bố mẹ thắt lưng buộc bụng cho tôi ăn học mà có được, và tấm lòng can đảm, dám nói thẳng, nói thật mà thôi. So với 25 năm tôi cống hiến cho cộng sản, thì một năm qua tôi đâu đã làm được gì?
- Thứ 2, dù thế nào thì cái chính đảng thối nát này không đủ can đảm cho tôi đi đâu, chính trong các cuộc thẩm tra họ đã bảo thẳng rồi: "Nếu chị thích định cư ở Mỹ hoặc bất cứ nước nào chúng tôi sẽ để chị đi vĩnh viễn, còn đi vài tuần hoặc một tháng để chửi lại 'tổ quốc' như ông Hoàng Minh Chính thì đừng mơ"'.
- Tường Thắng nghĩ là chính phủ Việt Nam có ký với các chính phủ Pháp,Anh, Mỹ cũng như tất cả các nước trên thế giới về chuyện các công dân Việt Nam được quyền xuất cảnh chứ.
- Thì nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam này cực kỳ đểu giả mà, ký thì vẫn cứ, nhưng bóp được cứ bóp... hai ví dụ cụ thể gần đây nhất là luật sư Nguyễn văn Đài và luật sư Lê thị Công Nhân đấy thôi
- Vâng, cám ơn chị, xin hỏi chị một câu cuối cùng, tình hình sức khoẻ chị ra sao rồi?
-Vâng, xin cám ơn anh, cũng ổn hơn một chút rồi anh ạ. Suốt cả tháng 8, sau khi bị Phạm thị Lộc bán đứng, bị cơ quan an ninh theo dõi, đeo bám 24/24 tiếng rồi bệnh tật ho hắng, uống qúa nhiều kháng sinh, tôi bị sụt liền 5 ký, từ to béo phốp pháp như bà chủ cửa hàng vàng thành eo co, xanh xám như bà chủ... cửa hàng bạc, từ Trương Mỹ Heo thành Trần... khỉ Thanh Thuỷ luôn, vì bệnh tiểu đường biến chứng mà tim đập nhanh, phổi bị nghi là nhiễm lao, gan chứa qúa nhiều độc tố, vài ngày lại mẩn đỏ hết cả bề mặt da, ngứa ngáy khó chịu vô cùng, đầu đau nhức, mệt mỏi... Giờ bão đen qua rồi chỉ còn bão rớt. Từ hôm thuê bình ô xy về để thở, rồi thuốc thang, chủ yếu là được giao lưu với cánh anh em dân chủ trong nước và cộng đồng Hải ngoại (thông qua các ý kiến đóng góp qua các bài viết hoặc gửi qua hòm thư, trò chuyện qua điện thoại) mà tim giảm được hẳn 20 nhip. Từ 111 nhịp/ phút còn 81 nhịp, phổi cũng đỡ cảm nhiễm, thương tổn vì ho hắng bớt dần, có thể "ngửi hơi chồng" như bình thường, không phải nằm nghiêng trên ghế theo kiểu nửa nằm nửa ngồi nữa...Vui nhất là hôm nay bắt đầu được làm việc bằng vi tính rồi anh ạ, chính số tiền 300 Mỹ kim mà nhóm "Lập trường chung" từ Mỹ gửi qua anh đó. Đúng là cầu được ước thấy. Nếu không vì chuyện tuần sau vẫn phải lên đồn trình diện, cãi cọ, ngày ngày chứng kiến cảnh cơ quan an ninh cho người canh gác từ cổng đến ngõ... thì vui... hết ốm, hết bệnh luôn...
- Vâng, dù sao cũng xin mừng với chị... giờ, cuộc nói chuyện đã dài, Tường Thắng cúp điện thoại nghen.
- Vâng xin cám ơn anh, hẹn gặp lại sau.
Hà Nội, 10-2006
TKTT (Lược thuật)
20 October 2006
18 October 2006
Hà Nội có một quan ôn
Trần Khải Thanh Thuỷ
Xưa nay người Việt vẫn quen với phép xử thế thông thường, sau khi tung hê hồ thỉ là về nhà ở ẩn, vui thú điền viên, cùng vợ chăm nom con cháu, đuổi gà, bắt sâu, trồng cây cảnh, làm thơ... chẳng ai dại dột đăng đàn, diễn thuyết để nói về công lao, thành tích của mình, cho dù có công tày trời đi nữa; Khôn ngoan cất kỹ trong lòng, cùng lắm là viết hồi ký, làm thơ tức cảnh, theo kiểu "ý tại ngôn ngoại" tự mình biết với mình mà thôi...
Vậy mà vừa qua ở Hà Nội đã xảy ra một chuyện động trời, một quan đại thần ngồi chót vót ở thượng tầng Hà Nội từ đầu thập kỷ 90, sau khi hạ cánh, đã cho đăng báo ca ngợi công đức và kể lể thành tích của mình suốt 10 năm trị vì. Nào là: Tôi tài giỏi, tôi liêm khiết, tôi trung thực, tôi thẳng thắn, tôi từ hai bàn tay trắng làm nên, tôi được dân tin, lãnh đạo yêu mến, tôi tư duy đúng, nhờ tôi mà bộ mặt Hà Nội thay đổi một trời một vực so với trước kia... v v. và v.v. Nghiã là chẳng một lời hàm ơn công sức tiền nhiệm, cũng chẳng một lời khen cấp trên, cấp dưới, đồng sự, càng không có lời nào tỏ lòng với mồ hôi, nước mắt của muôn dân bách tính đô thành. Suốt hai trang báo khổ rộng hơn 5.000 từ, chỉ dặt có "tôi" và "tôi".
Trước tiên để chứng minh mình là người tài giỏi, tư duy đúng, ông ta - cựu chủ tịch Hoàng văn Nghiên nói với cánh nhà báo: - Đời tôi có mấy giai đoạn, thứ nhất là người lính, thứ hai là nhà giáo và thứ 3 là nhà khoa học, sau đó là nhà doanh nghiệp rồi quản lý nhà nước. Khi tôi làm doanh nghiệp, một miếng đất cắm dùi không có, phải lấy quán nước làm trụ sở, phương tiện chỉ có chiếc xe đạp rách, vậy mà sau mười năm, tổng vốn tôi có khoảng 500 triệu USD. Con đường của tôi đang thênh thang trên cả nước và quốc tế nên chả bao giờ tôi nghĩ đến việc rời bỏ nó, nhưng năm 1994, nhà nước bảo sang làm quản lý thì phải sang thôi...
Từ nhà giáo, chân ướt, chân ráo sang làm chủ doanh nghiệp, đầu óc trắng tinh về quản lý, tiền tệ, kinh tế thị trường mà sau 10 năm có trong tay 500 triệu Mỹ kim, quả là không nhỏ. Nếu không buôn gian, bán lận, nhập nhèm chuyện đất cát nhà xưởng, ăn chặn tiền của công nhân, chiếm đoạt tiền tài trợ, đầu tư của nước ngoài... làm sao có thể giàu nhanh thế được, dù có tài giỏi đến mấy chăng nữa? Có lẽ "Thăng Long danh giá nhất ông này", nên lãnh đạo nhà nước phải vội vàng bảo ông sang điều khiển, dẫn dắt để Hà Nội vươn lên tầm cao mới, khi ông chưa hề qua cấp phó lấy kinh nghiệm như nhiều người khác, còn người dân Hà Nội thì rỉ tai nhau:
Phúc đức gì mày, bố đĩ Nghiên
Hao tiền trong nước lại nước ngoài...
Vậy mà, nhằm khẳng định công lao: - Sau 10 năm đã làm cho Hà Nội nhảy vọt, trở nên đô hội một trời một vực so với trước. Ông nói:
- Năm 1994, Hà Nội vẫn hết sức nhỏ bé, chật hẹp. Phố nhỏ, nhà thấp, đến mức lãnh đạo phải bỏ ra tiền tỷ để biến Xuân Hoà, Xuân Mai thành Hà Nội thứ hai, nào xây trường học, nhà máy, nhà ở... nhưng đều bỏ hoang vì không ai chịu lên ở. Còn tôi, đi bước ngắn mà chắc ăn hơn, hãy ra Xuân La, Xuân Đỉnh đã, các cụ hai xuân mình cũng hai xuân mà xuân mình gần hơn nên thắng to. Bên cạnh việc mở rộng, còn đầu tư xây dựng hàng loạt nhà hàng, khách sạn như Daewoo, Mêlia, Hilton, Bảo Sơn, đô thị Ciputra v.v.
Sợ phóng viên không ghi đủ những lời ông nói, không ý thức đủ những việc ông làm, cựu chủ tịch Hoàng văn Nghiên nói tiếp:
- Nhờ tư duy đúng, tôi đã làm được những điều mà người trước chưa làm được, đó là đúc đê bê tông cho sông hồng... Lúc đầu tôi tự hỏi: - Sông Hồng là tài sản quý giá, sao năm nào cũng trở thành ngáo ộp doạ người? Làm thế nào để tạo được thành phố hai bên sông? Đưa Sông Hồng vào giữa lòng Hà Nội, biến nó thành tài sản riêng của Hà Nội?
Hỏi rồi tự trả lời, cuối cùng tôi quyết định: - Phải giải quyết ngay con đê, đơn giản nhất là kè lại như bê tông, rồi làm đường đi, khiến đê vừa vững chãi, vừa trở thành đường rộng... Thế mà bao nhiêu điện thoại, thư chửi bới, nào là phá đê, phá những con rồng đất hàng nghìn năm, nào là đê pháp luật, không phải đê bình thường. Quả thực, tôi không dám vác mặt ra đê để khởi công, vì sợ bị chửi, bị những kẻ thiếu hiểu biết quấy rối, ném đá vào mình, nhưng đã xác định được đó là việc đúng thì cứ phải làm đã, sau này hậu thế sẽ ghi công. Cả khách sạn Daewoo cũng vậy, 34 bài báo từ trung ương đến địa phương đánh tới tấp, nhưng làm xong ai cũng thấy đây là công trình đẹp nhất Hà Nội, lại hàng loạt các nhà báo viết bài khen tới tấp.
Về sự thẳng thắn, liêm chính ông khẳng định:
- Hiện tôi vẫn ở căn hộ do nhà nước cấp, không mua thêm toà nhà hoặc biệt thự nào. Cách đây hơn 10 năm (Tết 1995) khi đó tôi vừa nhận chức, các cơ sở trực thuộc thành phố biếu tôi hơn một tỷ, tôi nộp vào ngân sách nhà nước hết, quyết không tiêu một xu nào vì đó là mô hôi, công sức của dân, có phải nước sông đâu?
Đề cập đến một loạt sai phạm của Hà Nội từ "vụ Thuỷ cung Thăng Long, Làng kiến trúc, dự án đường Trần Khát Trân" - đều là những dự án bê bối đa diện và điển hình, vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở Hà Nội, khởi đầu từ giữa thập kỷ 90 khi ấy, trong lúc ông nhậm chức, ông trả lời tỉnh queo:
- Tôi chẳng có tẹo lỗi nào, bởi vì những quy định của chúng tôi khác xa với quy định của nhà nước, ví như khi chính phủ ra nghị định 22 thì tôi thấy sai ơi là sai, mình phải tự tìm cách mà vận hành lấy, thấy việc đúng thì làm, nếu chẻ ra chưa có luật phải tự xây dựng luật, cho đến khi xã hội công nhận... Tất nhiên có những vụ án mình không đồng ý với sự lèo lá của nó, mình đã phản đối, đã báo cáo lên cấp trên mà không được chấp nhận, người ta vẫn thích đi cửa tiền, cửa hậu, cho đến khi chính phủ ký rồi thì mình đành phải thực hiện thôi.
Khi phóng viên nóng mắt đặt câu hỏi:
- Sau mười năm làm chủ tịch, thành phố vẫn đang cọ quậy tìm hướng đi, diện mạo vô cùng lem nhem, hệ thống cấp thoát nước quá tồi tệ, hễ mưa là ngập, đường chật, ô nhiễm môi trường nặng,quy hoạch không đồng bộ v.v ông cảm nhận thế nào mà lại cho rằng mình chỉ có công mà không có tội?
Ông phủ nhận tắp lự:
- Đổi mới của chúng ta đến giờ chưa đầy 20 năm, và chỉ thật sự phát triển từ 1991, như vậy mới khoảng15 năm. Từng ấy thời gian mà làm được chừng ấy công việc, đời sống so với trước đã là một trời một vực, tôi nghĩ đòi hỏi tất cả là không thực tế, không nên đưa bánh vẽ cho dân ăn mà phải cho dân thấy đường đi và triển vọng của thành phố ra sao.
Phóng viên đặt câu hỏi cuối cùng:
- Năm 1994 vừa lên làm chủ tịch ông đã từng phát biểu: Tôi nghĩ một đất nước mà lãnh đạo cùng ngồi lên đầu nhau và ngồi lên đầu dân để hành lẫn nhau và hành dân thì chẳng bao giờ khá lên được. Chính câu nói này nhà báo Trần thiên Nhiên đã ghi được và cho phát lên đài phát thanh, cho đến khi bị cấm. Vậy sau mười năm làm chủ tịch, ông nghĩ gì về câu nói này và tự đánh giá cái được nhất ở ông là gì?
Ông ngớ ra một lúc như để định thần rồi vội vàng đánh trống lảng:
- Có thể lúc chân ướt chân ráo tôi chưa có thói quen của người làm chính trị mà chỉ thuần tuý thói quen của người làm doanh nghiệp, còn 10 năm làm chủ tịch thành phố Hà Nội, tôi nghĩ cái được nhất của tôi là được dân mến yêu.
Làm quan thời nay mà được chúng sinh mến yêu, quả là độc đáo đại thần? ở Việt Nam, dân bị mị nhiều rồi, sao có thể nhìn ông ở góc độ ngưỡng mộ và đáng kính như vậy được - dù ông đã bẻm mép, lớn tiếng: Mị dân thì tôi được gì? Song cái xe đời mới ông đi, biệt thự ông ở rộng cả vài trăm mét tại số nhà 12 phố Nguyễn Chế Nghĩa, rồi những bữa picnic ngoài trời của đại gia đình ông chỉ vẻn vẹn 14 người mà tiêu mất 2000 USD do người phục vụ xót ruột, xót của rỉ tai nói lại với gia đình người thân, và lọt đến tai mọi người dân Hà Nội... Liệu đấy có phải sự mị hay không, lợi cho dân hay lợi cho ông?
Đời sống của người Hà Nội nói riêng và người dân Việt Nam nói chung so với thời bao cấp có dễ thở ít nhiều, nhưng người làm nên đổi mới, hoàn toàn không phải là các ông lớn. Một sai lầm của lãnh đạo, cả dân tộc phải trả giá bằng bao nhiêu năm, người Việt Nam cần cù, hiếu học, vậy mà luôn phải trả giá vì những sai lầm liên tiếp có hệ thống của lãnh đạo. 20 năm - một khoảnh khắc lịch sử nhưng cũng là quãng thời gian quý báu để làm nên cú nhảy vọt về kinh tế, văn hoá... Điều mà Bắc Kinh, Seoul, Tô-ki-ô, Băng cốc đã làm được, thì Hà Nội vẫn đang sa chân vào vũng lày dốt nát, đói kém, ô nhiễm môi trường do chính các lãnh đạo độc tài của Việt nam gây nên... Thế mà ông quan đầu thành của một thời này lại cho rằng mình có công lớn, làm cho bộ mặt Hà Nội đổi thay một trời một vực so với 10 năm trước? Quả là lật lọng.
Nếu xét về góc độ văn hoá, Hà Nội trước thập kỷ 90 không có nhiều xe máy và xe hơi như bây giờ, nhưng người Hà Nội luôn tự hào về thủ đô nghìn năm văn vật, vì vậy rất đông người Hà Nội có thái độ "kém thực dụng và phi kinh tế" với những thứ to tát mang tính tiền bạc, lãi lời như đê bê tông sông hồng, khách sạn Daewoo, nhà hàng hàm cá mập, khách sạn Mêlia, Hilton, Bảo Sơn, đô thị Ciputra v.v vì những nơi ấy, cả đời họ chả bao giờ được đặt chân đến. Hơn nữa chỉ có văn hoá mới cắt nghiã được vì sao người Hà Nội lại coi vườn đào Nhật Tân quý giá gấp bội so với cả đống biệt thự đờ luých của Ciputra... Cũng chính vì tình yêu Hà Nội mà suốt hai thập niên qua, người dân đã đòi hỏi chính quyền thành phố phải chắt ra chút xíu trong quỹ khổng lồ "đất vàng đất bạc, đất đô la" để xây bảo tàng Hà Nội, một công trình mà khối quý ông trưởng giả cho là chẳng đáng giá gì, mà bản thân ông Hoàng văn Nghiên cũng cho như thế. Chính vì thế mà đến giờ phút này, 18 nghìn hiện vật lịch sử Thăng Long Hà Nội (gồm cả bảo vật quốc gia) phải vạ vật ở nhờ khắp chốn, cùng nơi, bị nhét vào bao tải, túi cói trong gian nhà cấp bốn, hoặc phơi gió phơi sương giữa trời mà ngài chủ tịch suốt 10 năm đương quyền với vốn liếng 500 triệu USD cố tình lãnh đạm bỏ qua. Chưa kể những tệ nạn tiêu cực ngoài đường phố, trong trường học, bệnh viện bời bời phát sinh với tốc độ chóng mặt?
Một người như thế dám nói rằng "dân mến yêu tôi", rồi đưa ra lời khuyên cho người kế nhiệm mình: "Hãy để lại lòng tin cho dân" quả là sự lạc quan cách mạng? Lạc quan như chính các quan thầy của đảng cộng sản bây giờ. Cướp bóc trắng trợn mọi quyền lợi vật chất tinh thần của dân nhưng hễ mở miệng ra là tuyên bố: cho dân và vì dân.
Chả thế mà vào những ngày Hà Nội rập rình chuẩn bị 52 năm ngày giải phóng thủ đô, ngài cựu chủ tịch UBND thành phố Hà Nội đã đệ đơn xin mua đứt căn nhà số 12 Nguyễn Chế Nghĩa với giá rẻ như cho. Trong khi ông đã được cấp một căn hộ rộng lớn tương đương cấp bộ trưởng ở khu vực Đại học Bách Khoa, và bao nhiêu nhà nổi nhà chìm do con cái đứng tên khác rồi.
Ngôi nha? này trước 2002 thuộc sở hữu của tha?nh phố, nên khi lên làm chủ tịch UBND, với lý do khó khăn về chỗ ở ông đã ngang nhiên "mượn", lẽ ra sau khi thôi giữ chức chủ tịch, ông Nghiên phải trả lại ngôi nhà này để chính phủ làm trụ sở chăm lo cho người dân trong thành phố, song ông không những cố tình sự dụng mà còn đòi mua đứt, với cơ sở pháp lý la? Nghị định 61/CP ra ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở do ông VõVăn Kiệt, lúc ấy là thủ tướng ký, bắt UBND Thành Phố Ha? Nội phải gửi công văn tới Sở Nha? đất Hà Nội đề nghị ba?n nha? công cho ông. Trong khi biệt thự rộng hàng trăm mét vuông xây từ thời, trị gia? lên tới cả tỷ đô la. Thì ông xin mua với giá rẻ như cho, để cho công ty nước ngoài thuê lại với giá 5000USD/ tháng.
Bởi tất cả các lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam, các tân chủ tịch thành, tỉnh, huyện quận, phường, xó đều để lại "lòng tin cho dân" bằng cách "công một, tội chín" như thế này, làm gì Việt Nam chẳng chịu bao nhiêu quốc nạn lẫn quốc nhục? Và câu ca của người dân Việt Nam còn vang vọng khắp phố phường nẻo đường, ngõ ngách của người Hà Nội: Giàu như Phú, lú như Trọng, lật lọng như Nghiên...
Hà Thành 10-10-2006
TKTT
Xưa nay người Việt vẫn quen với phép xử thế thông thường, sau khi tung hê hồ thỉ là về nhà ở ẩn, vui thú điền viên, cùng vợ chăm nom con cháu, đuổi gà, bắt sâu, trồng cây cảnh, làm thơ... chẳng ai dại dột đăng đàn, diễn thuyết để nói về công lao, thành tích của mình, cho dù có công tày trời đi nữa; Khôn ngoan cất kỹ trong lòng, cùng lắm là viết hồi ký, làm thơ tức cảnh, theo kiểu "ý tại ngôn ngoại" tự mình biết với mình mà thôi...
Vậy mà vừa qua ở Hà Nội đã xảy ra một chuyện động trời, một quan đại thần ngồi chót vót ở thượng tầng Hà Nội từ đầu thập kỷ 90, sau khi hạ cánh, đã cho đăng báo ca ngợi công đức và kể lể thành tích của mình suốt 10 năm trị vì. Nào là: Tôi tài giỏi, tôi liêm khiết, tôi trung thực, tôi thẳng thắn, tôi từ hai bàn tay trắng làm nên, tôi được dân tin, lãnh đạo yêu mến, tôi tư duy đúng, nhờ tôi mà bộ mặt Hà Nội thay đổi một trời một vực so với trước kia... v v. và v.v. Nghiã là chẳng một lời hàm ơn công sức tiền nhiệm, cũng chẳng một lời khen cấp trên, cấp dưới, đồng sự, càng không có lời nào tỏ lòng với mồ hôi, nước mắt của muôn dân bách tính đô thành. Suốt hai trang báo khổ rộng hơn 5.000 từ, chỉ dặt có "tôi" và "tôi".
Trước tiên để chứng minh mình là người tài giỏi, tư duy đúng, ông ta - cựu chủ tịch Hoàng văn Nghiên nói với cánh nhà báo: - Đời tôi có mấy giai đoạn, thứ nhất là người lính, thứ hai là nhà giáo và thứ 3 là nhà khoa học, sau đó là nhà doanh nghiệp rồi quản lý nhà nước. Khi tôi làm doanh nghiệp, một miếng đất cắm dùi không có, phải lấy quán nước làm trụ sở, phương tiện chỉ có chiếc xe đạp rách, vậy mà sau mười năm, tổng vốn tôi có khoảng 500 triệu USD. Con đường của tôi đang thênh thang trên cả nước và quốc tế nên chả bao giờ tôi nghĩ đến việc rời bỏ nó, nhưng năm 1994, nhà nước bảo sang làm quản lý thì phải sang thôi...
Từ nhà giáo, chân ướt, chân ráo sang làm chủ doanh nghiệp, đầu óc trắng tinh về quản lý, tiền tệ, kinh tế thị trường mà sau 10 năm có trong tay 500 triệu Mỹ kim, quả là không nhỏ. Nếu không buôn gian, bán lận, nhập nhèm chuyện đất cát nhà xưởng, ăn chặn tiền của công nhân, chiếm đoạt tiền tài trợ, đầu tư của nước ngoài... làm sao có thể giàu nhanh thế được, dù có tài giỏi đến mấy chăng nữa? Có lẽ "Thăng Long danh giá nhất ông này", nên lãnh đạo nhà nước phải vội vàng bảo ông sang điều khiển, dẫn dắt để Hà Nội vươn lên tầm cao mới, khi ông chưa hề qua cấp phó lấy kinh nghiệm như nhiều người khác, còn người dân Hà Nội thì rỉ tai nhau:
Phúc đức gì mày, bố đĩ Nghiên
Hao tiền trong nước lại nước ngoài...
Vậy mà, nhằm khẳng định công lao: - Sau 10 năm đã làm cho Hà Nội nhảy vọt, trở nên đô hội một trời một vực so với trước. Ông nói:
- Năm 1994, Hà Nội vẫn hết sức nhỏ bé, chật hẹp. Phố nhỏ, nhà thấp, đến mức lãnh đạo phải bỏ ra tiền tỷ để biến Xuân Hoà, Xuân Mai thành Hà Nội thứ hai, nào xây trường học, nhà máy, nhà ở... nhưng đều bỏ hoang vì không ai chịu lên ở. Còn tôi, đi bước ngắn mà chắc ăn hơn, hãy ra Xuân La, Xuân Đỉnh đã, các cụ hai xuân mình cũng hai xuân mà xuân mình gần hơn nên thắng to. Bên cạnh việc mở rộng, còn đầu tư xây dựng hàng loạt nhà hàng, khách sạn như Daewoo, Mêlia, Hilton, Bảo Sơn, đô thị Ciputra v.v.
Sợ phóng viên không ghi đủ những lời ông nói, không ý thức đủ những việc ông làm, cựu chủ tịch Hoàng văn Nghiên nói tiếp:
- Nhờ tư duy đúng, tôi đã làm được những điều mà người trước chưa làm được, đó là đúc đê bê tông cho sông hồng... Lúc đầu tôi tự hỏi: - Sông Hồng là tài sản quý giá, sao năm nào cũng trở thành ngáo ộp doạ người? Làm thế nào để tạo được thành phố hai bên sông? Đưa Sông Hồng vào giữa lòng Hà Nội, biến nó thành tài sản riêng của Hà Nội?
Hỏi rồi tự trả lời, cuối cùng tôi quyết định: - Phải giải quyết ngay con đê, đơn giản nhất là kè lại như bê tông, rồi làm đường đi, khiến đê vừa vững chãi, vừa trở thành đường rộng... Thế mà bao nhiêu điện thoại, thư chửi bới, nào là phá đê, phá những con rồng đất hàng nghìn năm, nào là đê pháp luật, không phải đê bình thường. Quả thực, tôi không dám vác mặt ra đê để khởi công, vì sợ bị chửi, bị những kẻ thiếu hiểu biết quấy rối, ném đá vào mình, nhưng đã xác định được đó là việc đúng thì cứ phải làm đã, sau này hậu thế sẽ ghi công. Cả khách sạn Daewoo cũng vậy, 34 bài báo từ trung ương đến địa phương đánh tới tấp, nhưng làm xong ai cũng thấy đây là công trình đẹp nhất Hà Nội, lại hàng loạt các nhà báo viết bài khen tới tấp.
Về sự thẳng thắn, liêm chính ông khẳng định:
- Hiện tôi vẫn ở căn hộ do nhà nước cấp, không mua thêm toà nhà hoặc biệt thự nào. Cách đây hơn 10 năm (Tết 1995) khi đó tôi vừa nhận chức, các cơ sở trực thuộc thành phố biếu tôi hơn một tỷ, tôi nộp vào ngân sách nhà nước hết, quyết không tiêu một xu nào vì đó là mô hôi, công sức của dân, có phải nước sông đâu?
Đề cập đến một loạt sai phạm của Hà Nội từ "vụ Thuỷ cung Thăng Long, Làng kiến trúc, dự án đường Trần Khát Trân" - đều là những dự án bê bối đa diện và điển hình, vi phạm pháp luật nghiêm trọng ở Hà Nội, khởi đầu từ giữa thập kỷ 90 khi ấy, trong lúc ông nhậm chức, ông trả lời tỉnh queo:
- Tôi chẳng có tẹo lỗi nào, bởi vì những quy định của chúng tôi khác xa với quy định của nhà nước, ví như khi chính phủ ra nghị định 22 thì tôi thấy sai ơi là sai, mình phải tự tìm cách mà vận hành lấy, thấy việc đúng thì làm, nếu chẻ ra chưa có luật phải tự xây dựng luật, cho đến khi xã hội công nhận... Tất nhiên có những vụ án mình không đồng ý với sự lèo lá của nó, mình đã phản đối, đã báo cáo lên cấp trên mà không được chấp nhận, người ta vẫn thích đi cửa tiền, cửa hậu, cho đến khi chính phủ ký rồi thì mình đành phải thực hiện thôi.
Khi phóng viên nóng mắt đặt câu hỏi:
- Sau mười năm làm chủ tịch, thành phố vẫn đang cọ quậy tìm hướng đi, diện mạo vô cùng lem nhem, hệ thống cấp thoát nước quá tồi tệ, hễ mưa là ngập, đường chật, ô nhiễm môi trường nặng,quy hoạch không đồng bộ v.v ông cảm nhận thế nào mà lại cho rằng mình chỉ có công mà không có tội?
Ông phủ nhận tắp lự:
- Đổi mới của chúng ta đến giờ chưa đầy 20 năm, và chỉ thật sự phát triển từ 1991, như vậy mới khoảng15 năm. Từng ấy thời gian mà làm được chừng ấy công việc, đời sống so với trước đã là một trời một vực, tôi nghĩ đòi hỏi tất cả là không thực tế, không nên đưa bánh vẽ cho dân ăn mà phải cho dân thấy đường đi và triển vọng của thành phố ra sao.
Phóng viên đặt câu hỏi cuối cùng:
- Năm 1994 vừa lên làm chủ tịch ông đã từng phát biểu: Tôi nghĩ một đất nước mà lãnh đạo cùng ngồi lên đầu nhau và ngồi lên đầu dân để hành lẫn nhau và hành dân thì chẳng bao giờ khá lên được. Chính câu nói này nhà báo Trần thiên Nhiên đã ghi được và cho phát lên đài phát thanh, cho đến khi bị cấm. Vậy sau mười năm làm chủ tịch, ông nghĩ gì về câu nói này và tự đánh giá cái được nhất ở ông là gì?
Ông ngớ ra một lúc như để định thần rồi vội vàng đánh trống lảng:
- Có thể lúc chân ướt chân ráo tôi chưa có thói quen của người làm chính trị mà chỉ thuần tuý thói quen của người làm doanh nghiệp, còn 10 năm làm chủ tịch thành phố Hà Nội, tôi nghĩ cái được nhất của tôi là được dân mến yêu.
Làm quan thời nay mà được chúng sinh mến yêu, quả là độc đáo đại thần? ở Việt Nam, dân bị mị nhiều rồi, sao có thể nhìn ông ở góc độ ngưỡng mộ và đáng kính như vậy được - dù ông đã bẻm mép, lớn tiếng: Mị dân thì tôi được gì? Song cái xe đời mới ông đi, biệt thự ông ở rộng cả vài trăm mét tại số nhà 12 phố Nguyễn Chế Nghĩa, rồi những bữa picnic ngoài trời của đại gia đình ông chỉ vẻn vẹn 14 người mà tiêu mất 2000 USD do người phục vụ xót ruột, xót của rỉ tai nói lại với gia đình người thân, và lọt đến tai mọi người dân Hà Nội... Liệu đấy có phải sự mị hay không, lợi cho dân hay lợi cho ông?
Đời sống của người Hà Nội nói riêng và người dân Việt Nam nói chung so với thời bao cấp có dễ thở ít nhiều, nhưng người làm nên đổi mới, hoàn toàn không phải là các ông lớn. Một sai lầm của lãnh đạo, cả dân tộc phải trả giá bằng bao nhiêu năm, người Việt Nam cần cù, hiếu học, vậy mà luôn phải trả giá vì những sai lầm liên tiếp có hệ thống của lãnh đạo. 20 năm - một khoảnh khắc lịch sử nhưng cũng là quãng thời gian quý báu để làm nên cú nhảy vọt về kinh tế, văn hoá... Điều mà Bắc Kinh, Seoul, Tô-ki-ô, Băng cốc đã làm được, thì Hà Nội vẫn đang sa chân vào vũng lày dốt nát, đói kém, ô nhiễm môi trường do chính các lãnh đạo độc tài của Việt nam gây nên... Thế mà ông quan đầu thành của một thời này lại cho rằng mình có công lớn, làm cho bộ mặt Hà Nội đổi thay một trời một vực so với 10 năm trước? Quả là lật lọng.
Nếu xét về góc độ văn hoá, Hà Nội trước thập kỷ 90 không có nhiều xe máy và xe hơi như bây giờ, nhưng người Hà Nội luôn tự hào về thủ đô nghìn năm văn vật, vì vậy rất đông người Hà Nội có thái độ "kém thực dụng và phi kinh tế" với những thứ to tát mang tính tiền bạc, lãi lời như đê bê tông sông hồng, khách sạn Daewoo, nhà hàng hàm cá mập, khách sạn Mêlia, Hilton, Bảo Sơn, đô thị Ciputra v.v vì những nơi ấy, cả đời họ chả bao giờ được đặt chân đến. Hơn nữa chỉ có văn hoá mới cắt nghiã được vì sao người Hà Nội lại coi vườn đào Nhật Tân quý giá gấp bội so với cả đống biệt thự đờ luých của Ciputra... Cũng chính vì tình yêu Hà Nội mà suốt hai thập niên qua, người dân đã đòi hỏi chính quyền thành phố phải chắt ra chút xíu trong quỹ khổng lồ "đất vàng đất bạc, đất đô la" để xây bảo tàng Hà Nội, một công trình mà khối quý ông trưởng giả cho là chẳng đáng giá gì, mà bản thân ông Hoàng văn Nghiên cũng cho như thế. Chính vì thế mà đến giờ phút này, 18 nghìn hiện vật lịch sử Thăng Long Hà Nội (gồm cả bảo vật quốc gia) phải vạ vật ở nhờ khắp chốn, cùng nơi, bị nhét vào bao tải, túi cói trong gian nhà cấp bốn, hoặc phơi gió phơi sương giữa trời mà ngài chủ tịch suốt 10 năm đương quyền với vốn liếng 500 triệu USD cố tình lãnh đạm bỏ qua. Chưa kể những tệ nạn tiêu cực ngoài đường phố, trong trường học, bệnh viện bời bời phát sinh với tốc độ chóng mặt?
Một người như thế dám nói rằng "dân mến yêu tôi", rồi đưa ra lời khuyên cho người kế nhiệm mình: "Hãy để lại lòng tin cho dân" quả là sự lạc quan cách mạng? Lạc quan như chính các quan thầy của đảng cộng sản bây giờ. Cướp bóc trắng trợn mọi quyền lợi vật chất tinh thần của dân nhưng hễ mở miệng ra là tuyên bố: cho dân và vì dân.
Chả thế mà vào những ngày Hà Nội rập rình chuẩn bị 52 năm ngày giải phóng thủ đô, ngài cựu chủ tịch UBND thành phố Hà Nội đã đệ đơn xin mua đứt căn nhà số 12 Nguyễn Chế Nghĩa với giá rẻ như cho. Trong khi ông đã được cấp một căn hộ rộng lớn tương đương cấp bộ trưởng ở khu vực Đại học Bách Khoa, và bao nhiêu nhà nổi nhà chìm do con cái đứng tên khác rồi.
Ngôi nha? này trước 2002 thuộc sở hữu của tha?nh phố, nên khi lên làm chủ tịch UBND, với lý do khó khăn về chỗ ở ông đã ngang nhiên "mượn", lẽ ra sau khi thôi giữ chức chủ tịch, ông Nghiên phải trả lại ngôi nhà này để chính phủ làm trụ sở chăm lo cho người dân trong thành phố, song ông không những cố tình sự dụng mà còn đòi mua đứt, với cơ sở pháp lý la? Nghị định 61/CP ra ngày 5/7/1994 của Chính phủ về mua bán và kinh doanh nhà ở do ông VõVăn Kiệt, lúc ấy là thủ tướng ký, bắt UBND Thành Phố Ha? Nội phải gửi công văn tới Sở Nha? đất Hà Nội đề nghị ba?n nha? công cho ông. Trong khi biệt thự rộng hàng trăm mét vuông xây từ thời, trị gia? lên tới cả tỷ đô la. Thì ông xin mua với giá rẻ như cho, để cho công ty nước ngoài thuê lại với giá 5000USD/ tháng.
Bởi tất cả các lãnh đạo đảng và nhà nước Việt Nam, các tân chủ tịch thành, tỉnh, huyện quận, phường, xó đều để lại "lòng tin cho dân" bằng cách "công một, tội chín" như thế này, làm gì Việt Nam chẳng chịu bao nhiêu quốc nạn lẫn quốc nhục? Và câu ca của người dân Việt Nam còn vang vọng khắp phố phường nẻo đường, ngõ ngách của người Hà Nội: Giàu như Phú, lú như Trọng, lật lọng như Nghiên...
Hà Thành 10-10-2006
TKTT
11 October 2006
Kỷ niệm hay Tưởng liệm?
Nhân ngày "giải phóng thủ đô" (10-10-1954; 10-10-2006)
Trần Khải Thanh Thuỷ
Ai cũng biết, còn vẻn vẹn chưa đầy 4 năm nữa là 2010, chính quyền Hà Nội sẽ làm lễ kỷ niệm trọng đại bề thế nhất từ trước đến nay. Trong suốt thời gian này (từ đầu thiên niên kỷ thứ ba -2001) gần bốn triệu cư dân Hà Nội và 79 triệu cư dân còn lại của cả nước luôn trong tư thế chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.
Biết bao sáng kiến đã nảy sinh, bất chấp tính thực thi hay không, cũng bao điều lo lắng xung quanh lễ kỷ niệm này. Xin kể lại để độc giả xa gần cùng nghe, biết đâu góp thêm ý kiến cho dân sinh nước nhà.
Đầu tiên là cái tháp rùa nhỏ xíu giữa lòng hồ Hoàn Kiếm, nơi được coi là linh thiêng của Hà Nội xưa và nay, được lãnh đạo thành phố hăm hở đưa ra ý kiến phá bỏ thay vào đó một tượng đài uy nghi sừng sững nhằm thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng của dân tộc ta. Bởi suy cho cùng thì đó là sản phẩm của chế độ phong kiến chứ chẳng có gì đáng gọi là "lắng hồn núi sông nghìn năm" cả, mà lắng để làm gì khi chúng ta đang sôi sục kỷ niệm?
Trước đó người ta đã cho nhổ cỏ ở gò rùa, lát gạch, láng xi măng, quét vôi trắng lốp, đang tiến hành thì lệnh cấm karaôke diễn ra. Nếu không - như cảnh phóng viên báo chí bình luận: "Cứ đà ấy, chẳng chóng thì chầy, tháp rùa biến thành quán karaôkê ôm của mấy vị quan chức Hà Nội lúc nào không biết? Đền thờ Lê Lợi bây giờ mỗi ngày thêm teo tóp vì các công trình xây dựng quá cỡ vây quanh. Ngẩn ngơ trước sự ồn ào biến động của thời thế, động tác phóng gươm xuống hồ của vua Lê Thái Tổ cũng trở nên ngập ngừng, không dứt khoát. Nhà sử học Bùi Thiết - tác giả chính của cuốn "đối thoại sử học" mỗi lần qua đó đều lẩy kiều cho bàn dân nghe: Dễ loà yếm thắm chôn kim, làm chi bưng bít bắt chim khó lòng. Khi có người thắc mắc, ông giải thích: "Chôn kim nhỏ dễ bị loà đã đành, đằng này "bảo vệ xây dựng, phát huy truyền thống và niềm tự hào dân tộc" thế nào mà cả đến "yếm thắm" là phần rực rỡ quan trọng nhất cũng bị loà. Chả phải tượng vua Lê mới xây dựng từ thế kỷ 19 đã bị loà đi trong muôn vàn nhà hàng khách sạn đua chen đó sao? Nếu làm cuộc điều tra xã hội học, hỏi 1000 người có mặt xung quanh hồ lúc này thì tới 70 phần trăm số người phân vân không biết vua Lê Thái Tổ là ai, có phải Lê Lợi không? Đền thờ và tượng ông đặt ở đâu? cao thấp, to nhỏ thế nào?
Vực Trâu Vàng hay còn gọi là Hồ Tây với truyền thuyết đi vào lòng người dân Thủ Đô: Ngày xưa, nhà sư Khổng Lộ xin đồng đen của vua Trung Quốc về đúc chuông ở Việt Nam, khi đánh thử, tượng trâu vàng ở sân điện Trung Hoa nghe tiếng mẹ gọi (đồng đen là mẹ của vàng) liền lồng lên chạy thục mạng sang, đến vùng Hồ Tây thì tiếng chuông dứt. Nơi ấy, vốn là rừng lim cổ thụ, hai mẹ con sục sạo tìm nhau, mừng mừng tủi tủi, khiến đất sụt thành hồ, từ đó hồ Tây trở thành một phần máu thịt của người Hà Nội... Vậy mà "tối kiến" đã được đề ra trong cuộc hội thảo về chủ đề "tiến tới một nghìn năm Thăng Long" rằng phải biến Hồ Tây thành bãi biển, thay nước trong hồ thành nước mặn. Tiến hành xây lắp hệ thống quạt chạy bằng điện để thổi gió cho nước hồ cuộn lên như sóng, thế là có ngay một Đồ Sơn giữa lòng hồ. Việc gì phải cất công ra tận biển, vừa lãng phí xăng xe, sức lực lại tiết kiệm được tiền bạc, thời gian v.v.
Một loạt truyền thuyết gắn với việc xây thành, đắp luỹ như thành Đại La, Loa Thành. Theo sử sách, thành có từ thế kỷ 8 do Trương Bá Nghi xây năm 757, sau đó được Cao Chính Bình, Triệu Xương (thời Đường) củng cố và xây thêm. Sang thế kỷ 9 (năm 864) Cao Biền tiếp tục xây lên, rồi dâu bể thăng trầm, thành bị sạt lở, đổ vỡ, đến thế kỷ XI (1010) khi nhà Lý khởi nghiệp rời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ cho xây lại, sau đó đắp luỹ bao ngoài gọi là thành Đại La, không biết có phải vì thành quá bao la như tên gọi không mà đắp mãi không xong. Vua đến đền Bạch Mã cầu khẩn, thấy ngựa trắng từ trong ra, liền theo lối ngựa đi mà đắp. Nhờ đó thành không những đắp được mà còn trở nên bề thế, vững trãi. Trải qua bao triều đại, ngày một hoàn thiện hoành tráng hơn. Không ngờ đến triều đại Hồ Chí Minh, nào là tiêu thổ kháng chiến, nào là cho dù "Hà Nội và Hải phòng có biến thành tro thì người dân Việt Nam cũng quyết tâm đánh thắng giặc mỹ xâm lược. Cho nên sau bao nhiêu quyết tâm đánh thắng Mỹ, tiêu diệt mình mà Hà Nội chỉ còn xót lại dăm ba di tích của Thăng Long xưa. Lớp người hoài cổ ai cũng ngậm ngùi trước sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên và của con người, đặc biệt là của những nhà lãnh đạo hiếu chiến hiếu thắng và tàn ác, lớp người này, sớm hay muộn cũng sẽ trở thành tội đồ của dân tộc, của lịch sử, không khác được. Tuy nhiên khi mong ước khôi phục lại một phần máu thịt của lịch sử của ông cha trở thành hiện thực thì bao nhiêu di tích đã vô cớ bị tập đoàn cộng sản phá nát... Một ví dụ cụ thể sinh động nhất là khi mở con đường Đại Cồ Việt, không ít lãnh đạo cộng sản có "sáng kiến" bạt thấp các đoạn đường cao - dấu vết thấp lùn của luỹ thành Đại La xưa -là đê La Thành hiện tại - để cho tường thành biến thành đường luôn, vừa tiện, lợi lại rộng rãi, thông thoáng, như đã từng biến chùa Diên Hựu (tên chính thức của chùa một cột) có từ thế kỷ 11 (1048) với tuổi thọ gần 1000 năm thành sân sau của bảo tàng Hồ Chí Minh, với tuổi đời vẻn vẹn 14 năm (1992).
Loa Thành còn gọi là Thành ốc, do Thục An Dương Vương xây sau khi đánh bại 50 vạn quân xâm lược của Tần Doanh Chính. Tương truyền nhờ xây theo vết chân dẫn lối của rùa thần, gồm chín vòng hình chôn ốc mà không bị đổ. Qua nghiên cứu, luỹ thành cao khoảng 8- 12 mét, chân luỹ rộng 20 đến 30 mét, mặt luỹ rộng 6-12 met. Chu vi vòng ngoài 8 km. Bao triều đại đã qua, loa thành đồ sộ bề thế năm nào chỉ sót lại vài dấu tích. Đã thế trong cơn sốt xây nhà, người dân xung quanh cứ thản nhiên vác cuốc xẻng vào thành xưa đào đất làm gạch. Khi sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội biết chuyện, chạy mướt mồ hôi, cho ra một loạt thể lệ, quy chế, thủ tục, nội dung hòng giữ lại chút mảnh vỡ thiêng liêng của lịch sử, cấm bà con không được tự ý lấy đất làm gạch thì việc đã rồi. Thành chỉ còn là những giọt nước mắt của An Dương Vương rơi trên vết chân dẫn lối của thần Kim Quy mà thôi... hỡi ôi(!)
Tính đến thời điểm cuối 2006 này, vô vàn di sản của Thăng Long chỉ còn là kỷ niệm, hồi ức, hoặc tiếp tục bị xâm hại, chiếm dụng. Một lô các đạo quán nổi tiếng một thời như Trấn Vũ Quán (Đền Quán Thánh - Hồ tây), Huyền Thiên Quán (phố Hàng Khoai), Đồng Thiên Quán (ngõ Tạm Thương), Đế Thích Quán và Bích Câu Đạo quán... Trừ đền Quán Thánh được trùng tu xây dựng năm 1857, còn giữ được nguyên trạng, trở thành nơi giao lưu của tăng ni, phật tử và tín chủ mười phương, ngày ngày thả tiếng chuông ngân nga trong lòng người Hà Nội. Các đạo quán khác, cái bị thả nổi cho người vào ở vô tội vạ, phá phách từ trụ đỡ cuốn thư, đôi cánh chim phượng, đến cả toà đại bái hai tầng tám mái phá đi, cái bị lãng quên, mặc thời gian tàn phá. Bao đời chủ tịch phường, quận lên thay vẫn không đuổi nổi đám người trần mắt thịt ra khỏi đạo quán vì vướng mắc chính sách giấy tờ từ thời trước, hoặc vì quan hệ vòng vo dây mơ rễ má. Đơn giản hơn, nén bạc đâm toạc mọi thứ. Thời hiện đại này người ta chỉ chú ý xây nhà cửa phố phường, đường xá, để có màu mè, phết phẩy, phần trăm chứ mấy ai bám vào quần thể di tích cũ nát - đã chẳng được gì lại dính dáng đến tâm linh?
Một loạt đền thờ ca công, giáo phường - thuỷ tổ các quán hát, nhạc công một thời ở Khâm Thiên, phố Huế... nay xoá nhoà dấu tích hoặc còn trơ lại tấm biển kỷ niệm gắn trên tường ngoài đường. Bao địa danh xưa, vốn có từ lâu đời, không những không được giữ lại còn bị chuyển đổi vì thiếu tính hiện thực cách mạng(!) thiếu nội dung xó hội chủ nghĩa .
Năm 1964, cả nước bước vào "đỉnh cao muôn trượng" của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo Hà Nội quyết định đổi đường Huyền Trân công chúa thành phố Bùi thị Xuân. Phố Lữ Gia (một tể tướng thời triệu Đà nước Nam Việt cũ) thay bằng phố Lê Ngọc Hân - vợ vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) - một ông vua xuất thân từ tướng cướp chưa rõ là "anh hùng áo vải" của thời đại hay giặc cỏ? Trước đó vào năm đầu tiên của chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, trường nữ sinh Đồng Khánh Gia Long đổi thành trường Trưng Vương, rồi năm 1975, cả miền nam còn bàng hoàng sửng sốt vì công cuộc "giải phóng đất nước" do lãnh đạo cộng sản gây ra, người bị giải vào tù, phải tìm ra nghĩa địa (sau cả chục năm cải tạo vẫn không thành con người mới xã hội chủ nghĩa), người tự tử chết vì không sao thích nghi nổi với chế độ mới, ăn như sư, ở như phạm, nhá bo bo đến sái hàm, người mắc bệnh dạ dày, người suy dinh dưỡng nặng phải bỏ xứ mà đi xin tự do ở xứ người (khi tự do của mình đã vô tình gửi hết cho cộng sản Bắc Việt)... thì hàng chục tên đường lại bị đổi, đến mức bà con phải làm thơ để ngợi ca:
Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu công lý,
Đồng khởi vùng lên mất tự do...
Tất nhiên đạo cha cũng trọng, đạo thầy cũng sang, song sao không nghĩ Hà Nội, Sài Gòn mỗi ngày thêm quá đà, mở rộng, cần hàng trăm con đường khác nhau, mà giữ nguyên tên cũ, giành tên mới cho đường mới mở? Sao đang yên lành lại đổi tên cũ thành tên mới để loay hoay, cân nhắc, chiếu trên, chiếu dưới đủ vành, tốn bao công lao còn tổn hại tới thanh danh người xưa, chưa kể còn đưa những tên đồ tể thời đại - cuồng sát, dâm tặc, võ biền lên thành tên đường, tên phố bắt dân tộc phải thờ phụng để lại trong lòng dân bao nhiêu oán thán, hờn căm, như đường Nguyễn Chí Thanh, thành phố mang tên bác v.v và v.v.
Ba mươi sáu phố phường Hà Nội xưa, mỗi phố ứng với tên gọi một nghề. Nào hàng Khoai, hàng Lọng, hàng Thùng, hàng Mắm, hàng Muối, hàng Đường hàng Phèn, hàng Chiếu, hàng Giày, hàng Bạc, hàng Mã, hàng gà, hàng Ngang, Hàng Đào, hàng Buồm v.v. Ngày nay vẫn phố ấy, tên ấy mà hầu hết các làng nghề đã lụi, thay vào đó là một lô một lốc các hàng "đồ tể" khác như đường Lê Duẩn, đường Trường Chinh, linh tinh bát nháo. Trong chuyện này tất nhiên có nguyên nhân khách quan, song chủ yếu vẫn do lãnh đạo trình độ dốt nát, i tờ, giỏi thiến heo hơn giỏi cầm trịch, toàn làm những chuyện đại nghịch (cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc (1955) và miền Nam (1975) giết chết tươi mầm mống thương nghiệp), nên đã không biết cách tác động, giữ gìn, bảo tồn, để mặc các ngành nghề trôi nổi, thui chột, mất mát dần mòn còn để lại tiếng oán thán, than khóc muôn đời.
Người Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, vốn nổi tiếng khéo tay, tinh tế, đứng trước nguy cơ mai một của làng nghề đành thở dài, trơ mắt ếch, chuyển sang các nghề "giàu xổi" khác... cho dù có bạc ác nhưng được đảng nuôi dưỡng, tin cậy là được, ví dụ như nghề công an chẳng hạn. Trần gian có cả trăm nghề, nhưng nghề công an hiện tại là một trong những ngành nghề thất đức nhất. Lì lợm, đeo bám, theo dõi, ăn cướp, chộp giật, đánh người vô tội, bắt người vô cớ, lố nhố cả đàn... quây quanh các cuộc hội thảo, diễn đàn về việc "tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long" này.
Chuyện "tưởng liệm" vẫn còn dài, còn dại, nhưng trang viết có hạn đành dừng lại ở đây. Hy vọng đến 2010, thay vì kỷ niệm, toàn dân Việt Nam sẽ làm lễ tưởng liệm Đảng cộng sản Việt Nam. Sẽ có vô vàn hương vòng, vàng mã chúc mừng ngày Đảng tuyệt diệt, tận thế...
Hà Nội 5-10-2006
TKTT
(Phóng viên VNN)
Trần Khải Thanh Thuỷ
Ai cũng biết, còn vẻn vẹn chưa đầy 4 năm nữa là 2010, chính quyền Hà Nội sẽ làm lễ kỷ niệm trọng đại bề thế nhất từ trước đến nay. Trong suốt thời gian này (từ đầu thiên niên kỷ thứ ba -2001) gần bốn triệu cư dân Hà Nội và 79 triệu cư dân còn lại của cả nước luôn trong tư thế chuẩn bị cho lễ kỷ niệm 1000 năm Thăng Long.
Biết bao sáng kiến đã nảy sinh, bất chấp tính thực thi hay không, cũng bao điều lo lắng xung quanh lễ kỷ niệm này. Xin kể lại để độc giả xa gần cùng nghe, biết đâu góp thêm ý kiến cho dân sinh nước nhà.
Đầu tiên là cái tháp rùa nhỏ xíu giữa lòng hồ Hoàn Kiếm, nơi được coi là linh thiêng của Hà Nội xưa và nay, được lãnh đạo thành phố hăm hở đưa ra ý kiến phá bỏ thay vào đó một tượng đài uy nghi sừng sững nhằm thể hiện ý chí quyết chiến quyết thắng của dân tộc ta. Bởi suy cho cùng thì đó là sản phẩm của chế độ phong kiến chứ chẳng có gì đáng gọi là "lắng hồn núi sông nghìn năm" cả, mà lắng để làm gì khi chúng ta đang sôi sục kỷ niệm?
Trước đó người ta đã cho nhổ cỏ ở gò rùa, lát gạch, láng xi măng, quét vôi trắng lốp, đang tiến hành thì lệnh cấm karaôke diễn ra. Nếu không - như cảnh phóng viên báo chí bình luận: "Cứ đà ấy, chẳng chóng thì chầy, tháp rùa biến thành quán karaôkê ôm của mấy vị quan chức Hà Nội lúc nào không biết? Đền thờ Lê Lợi bây giờ mỗi ngày thêm teo tóp vì các công trình xây dựng quá cỡ vây quanh. Ngẩn ngơ trước sự ồn ào biến động của thời thế, động tác phóng gươm xuống hồ của vua Lê Thái Tổ cũng trở nên ngập ngừng, không dứt khoát. Nhà sử học Bùi Thiết - tác giả chính của cuốn "đối thoại sử học" mỗi lần qua đó đều lẩy kiều cho bàn dân nghe: Dễ loà yếm thắm chôn kim, làm chi bưng bít bắt chim khó lòng. Khi có người thắc mắc, ông giải thích: "Chôn kim nhỏ dễ bị loà đã đành, đằng này "bảo vệ xây dựng, phát huy truyền thống và niềm tự hào dân tộc" thế nào mà cả đến "yếm thắm" là phần rực rỡ quan trọng nhất cũng bị loà. Chả phải tượng vua Lê mới xây dựng từ thế kỷ 19 đã bị loà đi trong muôn vàn nhà hàng khách sạn đua chen đó sao? Nếu làm cuộc điều tra xã hội học, hỏi 1000 người có mặt xung quanh hồ lúc này thì tới 70 phần trăm số người phân vân không biết vua Lê Thái Tổ là ai, có phải Lê Lợi không? Đền thờ và tượng ông đặt ở đâu? cao thấp, to nhỏ thế nào?
Vực Trâu Vàng hay còn gọi là Hồ Tây với truyền thuyết đi vào lòng người dân Thủ Đô: Ngày xưa, nhà sư Khổng Lộ xin đồng đen của vua Trung Quốc về đúc chuông ở Việt Nam, khi đánh thử, tượng trâu vàng ở sân điện Trung Hoa nghe tiếng mẹ gọi (đồng đen là mẹ của vàng) liền lồng lên chạy thục mạng sang, đến vùng Hồ Tây thì tiếng chuông dứt. Nơi ấy, vốn là rừng lim cổ thụ, hai mẹ con sục sạo tìm nhau, mừng mừng tủi tủi, khiến đất sụt thành hồ, từ đó hồ Tây trở thành một phần máu thịt của người Hà Nội... Vậy mà "tối kiến" đã được đề ra trong cuộc hội thảo về chủ đề "tiến tới một nghìn năm Thăng Long" rằng phải biến Hồ Tây thành bãi biển, thay nước trong hồ thành nước mặn. Tiến hành xây lắp hệ thống quạt chạy bằng điện để thổi gió cho nước hồ cuộn lên như sóng, thế là có ngay một Đồ Sơn giữa lòng hồ. Việc gì phải cất công ra tận biển, vừa lãng phí xăng xe, sức lực lại tiết kiệm được tiền bạc, thời gian v.v.
Một loạt truyền thuyết gắn với việc xây thành, đắp luỹ như thành Đại La, Loa Thành. Theo sử sách, thành có từ thế kỷ 8 do Trương Bá Nghi xây năm 757, sau đó được Cao Chính Bình, Triệu Xương (thời Đường) củng cố và xây thêm. Sang thế kỷ 9 (năm 864) Cao Biền tiếp tục xây lên, rồi dâu bể thăng trầm, thành bị sạt lở, đổ vỡ, đến thế kỷ XI (1010) khi nhà Lý khởi nghiệp rời đô ra Thăng Long, vua Lý Thái Tổ cho xây lại, sau đó đắp luỹ bao ngoài gọi là thành Đại La, không biết có phải vì thành quá bao la như tên gọi không mà đắp mãi không xong. Vua đến đền Bạch Mã cầu khẩn, thấy ngựa trắng từ trong ra, liền theo lối ngựa đi mà đắp. Nhờ đó thành không những đắp được mà còn trở nên bề thế, vững trãi. Trải qua bao triều đại, ngày một hoàn thiện hoành tráng hơn. Không ngờ đến triều đại Hồ Chí Minh, nào là tiêu thổ kháng chiến, nào là cho dù "Hà Nội và Hải phòng có biến thành tro thì người dân Việt Nam cũng quyết tâm đánh thắng giặc mỹ xâm lược. Cho nên sau bao nhiêu quyết tâm đánh thắng Mỹ, tiêu diệt mình mà Hà Nội chỉ còn xót lại dăm ba di tích của Thăng Long xưa. Lớp người hoài cổ ai cũng ngậm ngùi trước sự tàn phá của thời gian, của thiên nhiên và của con người, đặc biệt là của những nhà lãnh đạo hiếu chiến hiếu thắng và tàn ác, lớp người này, sớm hay muộn cũng sẽ trở thành tội đồ của dân tộc, của lịch sử, không khác được. Tuy nhiên khi mong ước khôi phục lại một phần máu thịt của lịch sử của ông cha trở thành hiện thực thì bao nhiêu di tích đã vô cớ bị tập đoàn cộng sản phá nát... Một ví dụ cụ thể sinh động nhất là khi mở con đường Đại Cồ Việt, không ít lãnh đạo cộng sản có "sáng kiến" bạt thấp các đoạn đường cao - dấu vết thấp lùn của luỹ thành Đại La xưa -là đê La Thành hiện tại - để cho tường thành biến thành đường luôn, vừa tiện, lợi lại rộng rãi, thông thoáng, như đã từng biến chùa Diên Hựu (tên chính thức của chùa một cột) có từ thế kỷ 11 (1048) với tuổi thọ gần 1000 năm thành sân sau của bảo tàng Hồ Chí Minh, với tuổi đời vẻn vẹn 14 năm (1992).
Loa Thành còn gọi là Thành ốc, do Thục An Dương Vương xây sau khi đánh bại 50 vạn quân xâm lược của Tần Doanh Chính. Tương truyền nhờ xây theo vết chân dẫn lối của rùa thần, gồm chín vòng hình chôn ốc mà không bị đổ. Qua nghiên cứu, luỹ thành cao khoảng 8- 12 mét, chân luỹ rộng 20 đến 30 mét, mặt luỹ rộng 6-12 met. Chu vi vòng ngoài 8 km. Bao triều đại đã qua, loa thành đồ sộ bề thế năm nào chỉ sót lại vài dấu tích. Đã thế trong cơn sốt xây nhà, người dân xung quanh cứ thản nhiên vác cuốc xẻng vào thành xưa đào đất làm gạch. Khi sở Văn Hoá Thông Tin Hà Nội biết chuyện, chạy mướt mồ hôi, cho ra một loạt thể lệ, quy chế, thủ tục, nội dung hòng giữ lại chút mảnh vỡ thiêng liêng của lịch sử, cấm bà con không được tự ý lấy đất làm gạch thì việc đã rồi. Thành chỉ còn là những giọt nước mắt của An Dương Vương rơi trên vết chân dẫn lối của thần Kim Quy mà thôi... hỡi ôi(!)
Tính đến thời điểm cuối 2006 này, vô vàn di sản của Thăng Long chỉ còn là kỷ niệm, hồi ức, hoặc tiếp tục bị xâm hại, chiếm dụng. Một lô các đạo quán nổi tiếng một thời như Trấn Vũ Quán (Đền Quán Thánh - Hồ tây), Huyền Thiên Quán (phố Hàng Khoai), Đồng Thiên Quán (ngõ Tạm Thương), Đế Thích Quán và Bích Câu Đạo quán... Trừ đền Quán Thánh được trùng tu xây dựng năm 1857, còn giữ được nguyên trạng, trở thành nơi giao lưu của tăng ni, phật tử và tín chủ mười phương, ngày ngày thả tiếng chuông ngân nga trong lòng người Hà Nội. Các đạo quán khác, cái bị thả nổi cho người vào ở vô tội vạ, phá phách từ trụ đỡ cuốn thư, đôi cánh chim phượng, đến cả toà đại bái hai tầng tám mái phá đi, cái bị lãng quên, mặc thời gian tàn phá. Bao đời chủ tịch phường, quận lên thay vẫn không đuổi nổi đám người trần mắt thịt ra khỏi đạo quán vì vướng mắc chính sách giấy tờ từ thời trước, hoặc vì quan hệ vòng vo dây mơ rễ má. Đơn giản hơn, nén bạc đâm toạc mọi thứ. Thời hiện đại này người ta chỉ chú ý xây nhà cửa phố phường, đường xá, để có màu mè, phết phẩy, phần trăm chứ mấy ai bám vào quần thể di tích cũ nát - đã chẳng được gì lại dính dáng đến tâm linh?
Một loạt đền thờ ca công, giáo phường - thuỷ tổ các quán hát, nhạc công một thời ở Khâm Thiên, phố Huế... nay xoá nhoà dấu tích hoặc còn trơ lại tấm biển kỷ niệm gắn trên tường ngoài đường. Bao địa danh xưa, vốn có từ lâu đời, không những không được giữ lại còn bị chuyển đổi vì thiếu tính hiện thực cách mạng(!) thiếu nội dung xó hội chủ nghĩa .
Năm 1964, cả nước bước vào "đỉnh cao muôn trượng" của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội, lãnh đạo Hà Nội quyết định đổi đường Huyền Trân công chúa thành phố Bùi thị Xuân. Phố Lữ Gia (một tể tướng thời triệu Đà nước Nam Việt cũ) thay bằng phố Lê Ngọc Hân - vợ vua Quang Trung (Nguyễn Huệ) - một ông vua xuất thân từ tướng cướp chưa rõ là "anh hùng áo vải" của thời đại hay giặc cỏ? Trước đó vào năm đầu tiên của chính thể Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà, trường nữ sinh Đồng Khánh Gia Long đổi thành trường Trưng Vương, rồi năm 1975, cả miền nam còn bàng hoàng sửng sốt vì công cuộc "giải phóng đất nước" do lãnh đạo cộng sản gây ra, người bị giải vào tù, phải tìm ra nghĩa địa (sau cả chục năm cải tạo vẫn không thành con người mới xã hội chủ nghĩa), người tự tử chết vì không sao thích nghi nổi với chế độ mới, ăn như sư, ở như phạm, nhá bo bo đến sái hàm, người mắc bệnh dạ dày, người suy dinh dưỡng nặng phải bỏ xứ mà đi xin tự do ở xứ người (khi tự do của mình đã vô tình gửi hết cho cộng sản Bắc Việt)... thì hàng chục tên đường lại bị đổi, đến mức bà con phải làm thơ để ngợi ca:
Nam Kỳ khởi nghĩa tiêu công lý,
Đồng khởi vùng lên mất tự do...
Tất nhiên đạo cha cũng trọng, đạo thầy cũng sang, song sao không nghĩ Hà Nội, Sài Gòn mỗi ngày thêm quá đà, mở rộng, cần hàng trăm con đường khác nhau, mà giữ nguyên tên cũ, giành tên mới cho đường mới mở? Sao đang yên lành lại đổi tên cũ thành tên mới để loay hoay, cân nhắc, chiếu trên, chiếu dưới đủ vành, tốn bao công lao còn tổn hại tới thanh danh người xưa, chưa kể còn đưa những tên đồ tể thời đại - cuồng sát, dâm tặc, võ biền lên thành tên đường, tên phố bắt dân tộc phải thờ phụng để lại trong lòng dân bao nhiêu oán thán, hờn căm, như đường Nguyễn Chí Thanh, thành phố mang tên bác v.v và v.v.
Ba mươi sáu phố phường Hà Nội xưa, mỗi phố ứng với tên gọi một nghề. Nào hàng Khoai, hàng Lọng, hàng Thùng, hàng Mắm, hàng Muối, hàng Đường hàng Phèn, hàng Chiếu, hàng Giày, hàng Bạc, hàng Mã, hàng gà, hàng Ngang, Hàng Đào, hàng Buồm v.v. Ngày nay vẫn phố ấy, tên ấy mà hầu hết các làng nghề đã lụi, thay vào đó là một lô một lốc các hàng "đồ tể" khác như đường Lê Duẩn, đường Trường Chinh, linh tinh bát nháo. Trong chuyện này tất nhiên có nguyên nhân khách quan, song chủ yếu vẫn do lãnh đạo trình độ dốt nát, i tờ, giỏi thiến heo hơn giỏi cầm trịch, toàn làm những chuyện đại nghịch (cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh ở miền Bắc (1955) và miền Nam (1975) giết chết tươi mầm mống thương nghiệp), nên đã không biết cách tác động, giữ gìn, bảo tồn, để mặc các ngành nghề trôi nổi, thui chột, mất mát dần mòn còn để lại tiếng oán thán, than khóc muôn đời.
Người Việt Nam nói chung và Hà Nội nói riêng, vốn nổi tiếng khéo tay, tinh tế, đứng trước nguy cơ mai một của làng nghề đành thở dài, trơ mắt ếch, chuyển sang các nghề "giàu xổi" khác... cho dù có bạc ác nhưng được đảng nuôi dưỡng, tin cậy là được, ví dụ như nghề công an chẳng hạn. Trần gian có cả trăm nghề, nhưng nghề công an hiện tại là một trong những ngành nghề thất đức nhất. Lì lợm, đeo bám, theo dõi, ăn cướp, chộp giật, đánh người vô tội, bắt người vô cớ, lố nhố cả đàn... quây quanh các cuộc hội thảo, diễn đàn về việc "tiến tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long" này.
Chuyện "tưởng liệm" vẫn còn dài, còn dại, nhưng trang viết có hạn đành dừng lại ở đây. Hy vọng đến 2010, thay vì kỷ niệm, toàn dân Việt Nam sẽ làm lễ tưởng liệm Đảng cộng sản Việt Nam. Sẽ có vô vàn hương vòng, vàng mã chúc mừng ngày Đảng tuyệt diệt, tận thế...
Hà Nội 5-10-2006
TKTT
(Phóng viên VNN)
07 October 2006
Chung quanh số phận một cái tên
(Tự thuật)
Trần Khải Thanh Thuỷ
“… Bố ra đi hận vì mình chưa làm gì cho mẹ và các con, chỉ u mê, ảo tưởng, lầm lạc về một thứ chủ nghĩa mơ hồ, vì một lý tưởng bị bội phản. Hy vọng thế hệ các con không dễ bị đầu độc như vậy …”
Anh không chấp nhận, tôi không yên lòng nhắm mắt, xuống suối vàng. Tôi, tôi họ Trần, đệm Khải và Thanh. Nhiều người thắc mắc vì cái tên dài dằng dặc của tôi. Khi biết tôi có gia đình, lại cho rằng chữ Khải ấy là tên người bạn đời của tôi... Quả là sự nhầm lẫn thú vị, vì có đề cao giá trị của hôn nhân đến mấy, tôi cũng không có được ý tưởng lãng mạn đó, huống hồ tôi nhìn nhận hôn nhân ở góc độ hết sức biện chứng và đời thường: Hôn nhân là một sự cộng gộp, sung sướng gấp đôi và đau khổ cũng gấp đôi (Lạy chuá, nếu người ta biết kìm hãm và tự điều tiết mình, ngược lại, để chốt hãm bật tung khỏi van điều tiết thì sự đau khổ, tôi tin là gấp... bội, chứ không thể là gấp bốn, gấp đôi nữa. Không tin bạn hãy thử mà xem(!)
Xin quay ngược lại 46 năm về trước, giữa trưa mùa đông lạnh giá tôi cất tiếng chào đời. Sự ra đời của tôi dẫu không phải "tình cờ" cũng không có gì đặc biệt. Xem trong tiểu sử của các vĩ nhân, tôi luôn bắt gặp những dòng chữ: Tôi sinh ra trong một đêm mưa gió. Thay vì những giấc mơ tiên tri báo hiệu sự ra đời của đứa con danh nhân, thần đồng như những bà mẹ may mắn khác, mẹ tôi chỉ có cảm giác đói, bà hoàn toàn không ngờ tôi có thể chào đời nhanh thế, khi 2 ngày trước bà đi khám, bác sĩ bảo ít nhất cũng còn một tháng nữa, tốt nhất nửa tháng sau quay lại mới có thể biết ngày mãn nguyệt khai hoa... Sáng hôm ấy bà đi làm như bình thường và suýt nữa thì đẻ rơi tôi trên những bậc cầu thang nơi bà làm việc (Viện thiết kế Thủy Lợi, bộ Thủy Lợi). Khi dấu hiệu của sự vượt cạn đến gần, bà lâm râm đau bụng, toàn thân là một sự chuyển rung dữ dội, không đứng, không ngồi được, cứ phải cúi lom khom. Một người đồng nghiệp lớn tuổi -cũng là chị em kết nghiã- quả quyết bà sắp đẻ, vội vàng gọi xích lô, ấn bà vào. Nể lời, bà đành phải theo chị bạn đến viện để khám lại, nhưng vẫn đinh ninh theo lời bác sĩ, chỉ là đau bụng thông thường do đói lạnh, hay tối hôm trước ăn phải cái gì không lành, vì tính tháng tính ngày mới được có tám tháng...Vừa kịp trèo lên bàn, một phần cơ thể tôi đã lộ ra... bác sĩ la tá hỏa, ấn luôn bà vào cái bàn định mệnh đó, thế là...đẻ. Đơn giản như gà đẻ trứng vậy, trong khi sáng ra bà chưa kịp gia cố dạ dày, nên đói ngấu, lạnh run người đến mức chính y tá đỡ đẻ phải nhường cơm sẻ áo cho bà (đến bây giờ tôi vẫn không hiểu sao hồi ấy lại có người tốt đến thế, chứ tôi đã hai lần sinh nở, hễ không có tiền lót ổ, thì lương y thành... hà bá, thầy thuốc kiêm mẹ mìn ngay).
Bố tôi vốn dòng dõi khoa bảng, khi sinh, ông muốn con cái -không những sao chép trọn vẹn hệ ADN còn phải mang cả dấu ấn tên tuổi của mình, vì thế bốn anh em tôi, dù trai hay gái đều có đệm Khải như một dấu ấn nghìn đời của tổ tiên để lại (Trừ khi dòng họ Trần Khải bị tuyệt diệt hoặc vì một lý do nào đó phải thay tên đổi họ).Vốn là người giản dị, không ưa cầu kỳ, cái tên... đa âm, đa tạp này làm tôi khốn khổ suốt 30 năm trời. Để đơn giản hóa con người mình, dễ hòa nhập với đám đông cây cỏ, hoa lá, rác rưởi, sình lầy trên dòng sông cuộc đời, tôi thường bỏ rơi chữ Khải hoặc thay bằng đệm Thị, nào ai ngờ cái tên ấy luôn bị trùng lặp, dễ lẫn với bạn bè cùng trường, lớp nên không được chấp nhận. Đặc biệt trong các kỳ thi vượt rào, vượt tuyến cấp I, cấp II. Hồ sơ lý lịch ghi rõ rành rành, cấm có thay đổi được, đành nén lòng, kìm mình làm lại, để thẻ học sinh trùng với giấy khai sinh trong lý lịch tự thuật. Xét cho cùng, bài thi có lọt qua được hàng rào khắc nghiệt này, điểm thi cũng không được công nhận... 12 năm, ứng với 24 kỳ thi, tôi vẫn không thể quen với cái tên quá đặc biệt, phi lô gích của mình. Trong sổ đầu bài bao giờ nó cũng lòi ra cả một đống chữ và là mục tiêu đầu tiên gây sự chú ý của giáo viên, mỗi khi gọi lên bảng kiểm tra miệng đầu giờ. Nếu không, bao giờ cũng gây phản ứng cả nhiều phiá giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn và lũ học bạn cùng lớp: -"Tên gì mà loằng ngoằng thế này?" Hoặc: "Tên với chả tuổi, nghe cứ ngang phè phè". Trong lớp có một cô Trần Thanh Thuỷ khác, vừa điệu vừa học kém, khiến tôi không thể "lẩn khoản" cái tên cha sinh mẹ đẻ của mình. Nhiều người quen tay đề Trần Thị Thanh Thuỷ , khi phát hiện ra vẫn thiếu chữ đệm liền thêm chữ Khải vào giữa, khi đọc lên đủ cả năm chữ: Trần Khải Thị Thanh Thuỷ hoặc Trần Thị Khải Thanh Thuỷ làm tôi đỏ bừng mặt, còn lũ "nhất quỷ nhì ma" thì được dịp cười rũ...Đau lòng hơn, để khỏi gọi tên dài ngoãng lại phân biệt với cô bạn Thuỷ kia, chúng gọi tắt tôi là Khải Thủy. Thật như hai càng nhọn hoắt của con cua chọc thẳng vào hông.
17 tuổi tôi không làm nổi chứng minh thư còn vì một lý do tế nhị, động trời hơn. Bố tôi vốn sính chữ, mê anh hùng thế giới hơn cả con mình nên ghép tên các anh hùng vào tên con như tôi là Trần Khải Thanh Thuỷ Zôia, còn em tôi là Trần Khải Ca Tanmal...v.v. Tôi đã khóc nửa ngày khi mọi lý do đưa ra đều không được chấp nhận, dù vẻ mặt hình thể khi ấy, tôi rất đáng thương, song xét về nguyên tắc, nếu tôi không trung thực với cái tên cha sinh mẹ đẻ của mình thì không thể có quyền công dân - nghiã là được cấp chứng minh thư như bao người khác
Sau một hồi an ủi động viên tôi về ý nghiã cao đẹp của cái tên đặc biệt đó, vừa là đệm Khải và Thanh của cả bố lẫn mẹ, là chiếc cầu xinh bắc ngang hai bờ tình yêu của bố mẹ, lại là nữ anh hùng Liên xô, vẫn không kéo tôi ra khỏi cơn hờn giận tức tưởi, bố tôi chán ngán, nói sẵng: "Thôi thì tùy mày, chờ đủ 18 tuổi có quyền công dân, tự đi mà thay tên đổi họ".
Tôi chỉ thực sự bừng tỉnh sau bao lần mất nhuận bút. Tuy tốt nghiệp đại học sư phạm khoa sinh - kỹ thuật nông nghiệp (thường bị gọi chệch là khoa lông gà lông vịt), song tôi rất thích viết và đã thử sức mình trên mặt báo ngay khi vừa ra khỏi trường. Cái tên Trần Thanh Thuỷ chẳng gợi lên điều gì tốt đẹp, nếu tôi không ghi đầy đủ địa chỉ, số nhà, lập tức số tiền còm bốc bay ngay. Khi tôi đọc báo, biết tin, về tòa soạn lấy, thì người ta đã chuyển cho một phóng viên báo Hà Nội hoặc Lao Động từ tám hoánh nào rồi, không ai nghĩ tác giả chỉ là một giáo viên bản, làng như tôi. Hè 1986, tôi vào Nam, đem cả tập bài vào theo, không ngờ chưa đầy hai tuần lại sấp ngửa ra đi, tôi chỉ kịp ném nửa số bài vào tòa soạn báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và nửa còn lại vào báo Khăn quàng đỏ. Với lĩnh vực thiếu nhi, tôi may mắn hơn, gửi bài trực tiếp cho biên tập viên Lê Việt Nga, sau hai ngày đọc một mạch 20 bài của tôi, chị hồ hởi bảo: "Bài của em được lắm, từ ngày làm phóng viên trực trang đến giờ, chị nhận cả nghìn bài, nhưng không bao giờ xài tới phân nửa như của em, thậm chí nếu bí bài, thì xài hết luôn em à".
Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai, khi tôi tìm ra được địa chỉ báo Phụ nữ để mò đến chỉ được nhân viên ban bạn đọc tiếp, lịch sự nhưng khách sáo. Vì vội, tôi để bài lại tòa soạn rồi theo đoàn lên tàu ra Bắc ngay, không hề biết số phận của những đứa con tinh thần của mình thế nào!
Trở về trường, tâm trí tôi còn để cả ở những bài báo. Tôi cứ tự trách mình rằng bản thảo đâu phải đứa con hoang, sao có thể cẩu thả như thế, chỉ ghi tên họ chung chung không hề có địa chỉ ở lại, không biết số phận chúng sẽ ra sao? Sau đó tôi gặp nhà văn Phong Thu, biết ông cũng cộng tác với vài tờ báo phiá Nam, trong đó có báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh liền nhờ ông hỏi hộ. Hóa ra tất cả số bài được in đã chuyển nhuận bút cho tác giả rồi. Tra trong các báo họ thấy có một phóng viên nữ là Trần Thanh Thuỷ thường gọi là Thủy đen ở báo Lao động, họ đã gửi đến đó. Tôi tất tưởi tìm đến thì ôi thôi, chỉ được một lời giải thích: ừ, mình cũng băn khoăn mãi, không biết ai đã gửi báo kính biếu để mình đọc, lại còn gửi cả tiền cho mình tiêu nữa, lại không chỉ một lần. Hóa ra trên đời này có tới hai bà Trần Thanh Thuỷ bằng xương bằng thịt cơ à? Khéo nhảy ?
Tiền chị Thủy đã tiêu từ tám hoánh nào rồi, tôi chỉ xin chị những số báo có đăng bài để giữ làm kỷ niệm, chị sốt sắng nhận lời, để rồi bao nhiêu lần sau đó (không chỉ riêng một việc này) đều chỉ là một ngụm nước lã đun sôi để nguội tiếp tôi chứ chẳng có bát nước xáo, hoặc tờ báo nào cả. Đơn giản, chị bảo, lâu ngày quá rồi chị không biết ở đâu mà tìm. Làm một phóng viên như chị, chỉ vài hôm là bài vở tài liệu ngập lên tận mặt, không biết ai đọc lấy đi, cho ai xem, ai mượn hay dúi vào đâu"... Thành thật suốt cả năm trời làm quen với chị tôi không ngờ chị có thể hứa dễ dãi đến thế, mức siêu cuội như Trần Đăng Khoa với biệt hiệu nhà văn Trung Trung Đỉnh đặt: "Thằng Cuội ngồi gốc cây thơ" cũng không thể bằng. Tiền chỉ là chuyện nhỏ nhưng công sức và thời gian tôi bỏ ra sau đó trong những bài viết về các vụ việc tiêu cực ở trường nơi tôi dạy (Kỳ Sơn B Hà Sơn Bình) đâu phải là chuyện vặt!... Thế mà tôi cứ tin ở con người, ở lời hứa rằng hứa là nợ, nợ thì phải trả, không thể quỵt được, rằng một lời đã trót nói ra dẫu rằng 4 ngựa cố mà đuổi theo. Bao nhiêu công sức nhiệt huyết của những ngày đầu cầm bút tôi trao cả cho chị, tiếc thay thời điểm 1986, 1987 ấy lại chưa hề có máy phô tô copy hoặc máy tính, chỉ đơn thuần là viết tay... Khi phát hiện ra chị chỉ là một kẻ luôn hứa hão...thì tôi cũng trắng tay vì bản thảo không thể lấy lại được nữa. Có lẽ câu tin bạn mất bò luôn đúng trong trường hợp tôi lúc bấy giờ. Chỉ có điều bò mất còn có thể sắm lại được, còn những bản thảo mà tôi đã viết bằng tất cả công sức trí lực tình cảm của mình lúc đó, không thể viết ra được lần thứ hai, dù sau này tôi có là thợ viết, nhai phóng sự rau ráu, điều tra các sự việc tinh thông lão luyện đi chăng nữa, cũng không thể viết lại như cũ được .
Vừa không thể để mất "khúc ruột" của mình (đồng tiền liền khúc ruột) vừa không bị đánh đồng với một người dễ dãi như thế trong làng báo, tôi quyết định lấy lại đệm Khải của mình trong mọi bài viết (tất nhiên còn cả bút danh là tên chồng và hai cô con gái khi đã lập gia đình nữa). Tên Trần Thanh Thuỷ chỉ xuất hiện ở những bài mà tôi cho là không quan trọng, xoàng xoàng mà thôi. Tuy không làm hàng chợ, hoặc vì mưu sinh, đôi khi tôi buộc phải làm, thì mức độ hàng chợ của tôi cũng luôn cẩn trọng, như các mặt hàng của Trung Quốc vậy, người có kinh nghiệm biết phân biệt thì chọn được hàng loại I, tức trung ương, còn không gặp hàng địa phương loại 2, 3. Bản thân tôi luôn ghét sự cỏ giả. Vì thế tuy rất luộm thuộm trong đời thường nhưng với chữ nghiã luôn là sự lao động nghiêm túc, hết mình. Nếu bài chưa hay, chưa chuẩn, thì do nhận thức vốn sống của tôi chưa tới, chứ không phải do ẩu, do vội vã, tắc trách.
Từ ngày lấy lại đầy đủ họ tên, tôi không gặp phải rắc rối nào nữa, chưa kể như một sự "nhất nước". Bao lần bản thảo gửi đi, không địa chỉ, điện thoại tôi vẫn được lĩnh nhuận bút như thường, vì bạn bè đọc được, qua điện thoại mà thông báo cho tôi, khi tôi còn nghi hoặc, bao giờ cũng được khẳng định: "Khổ quá, nhầm làm sao được, đúng là Trần Khải Thanh Thuỷ mà, còn ai có đệm Khải ở giữa như bà nữa đâu". Rồi: "Ôi giời cái chất giọng cứ tưng tửng như vậy, "ngửi" là ra ngay mà!”. Thế là tôi gọi điện thoại vào yêu cầu toà soạn gửi nhuận bút hoặc gần thì ung dung đến lấy, trăm lần không chệch. Hồi vừa làm nhà (1996) tôi nhớ lương chỉ 400.000đồng, mà riêng nhuận bút thơ có tháng lên tới 550.000 đồng nhờ đệm Khải ấy, người trong tòa soạn bực mình đố kỵ thấy tôi có giấy báo lĩnh tiền không chịu báo lại, nhưng bưu điện gửi hết lần nầy đến lần khác, cuối cùng châu về hợp phố.
Cũng nhờ đêm Khải ấy mà tôi gặp may. Bố tôi trước vốn là người thông minh dĩnh ngộ, đẹp về hình thể lại giỏi về chữ nghiã. Ông biết 6 ngoại ngữ và am hiểu hầu hết các lĩnh vực văn hoá khoa học. Bạn bè cùng lục quân khóa 4, trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn với ông kể: "Chú trưởng thành được là nhờ bố cháu, con nhà nghèo có được học hành gì đâu. Vào bộ đội, thèm chữ như thèm gái. Biết bố mày hay chữ sán đến, những tưởng cưỡi ngựa xem hoa, học hành ba chữ lem nhem, có méo mó hơn không thôi, ai ngờ bố mày là người hiểu biết thấu đáo, kèm cặp dạy dỗ rất bài bản, chiều nào, tối nào cũng ốp học, ít nhất là 2 -3 tiếng, bù lại mọi công việc giặt giũ, gấp chăn màn, chẻ củi, lấy nước là tao lo, mà kỷ luật quân đội đâu có lơ tơ mơ được. Sáng ra, nhảy ào xuống suối, tay trái đánh răng, tay phải khoắng quần áo, hai chân kẹp xô chậu, chăn màn...cuống cà kê lên. Cũng may bố mày chỉ cầu kỳ khó tính trong văn chương, chữ nghiã, còn cực kỳ dễ tính trong đời thường. Ăn thế nào cũng được, mặc thế nào cũng xong..." Ra trường, như những cánh đại bàng sải cánh bay khắp các chiến trường miền Nam, bẵng đi vài chục năm, ngày giải phóng trở về ngậm ngùi nhận tin bố tôi ốm, mất, lại vô tình đọc bài thơ hoặc văn tôi trên sách báo, chỉ nhờ đệm Khải và chất giọng, các cô chú khẳng định: Đúng nó là con thằng bạn Khải Tuân rồi, bèn bảo nhau đi tìm, địa chỉ không có, chỉ mang máng biết tôi ở Hà Nội, trong khu tập thể của trường đại học Thủy Lợi, cứ lao đi, người ba lần, người năm lần đưa vợ con theo để tìm gặp vợ và con gái anh Khải Tuân. Tìm được đến tôi thì ngồi ụp xuống, ôm gối mà khóc vì mừng vì tủi, vì tìm được tới gia đình cháu qua 40 năm bằn bặt. Giờ hai đầu gối chú đang reo hát trên nền gạch vì vui sướng đây này.
Mối quan hệ ngay sau đó được xác lập.Tôi được nhận về tất cả tình cảm yêu quý chân thành mà lẽ ra bố tôi được hưởng, từ cuộc gặp mặt hàng năm. Những chuyến đi xa cả hai mẹ con đều được tài trợ, khoản tiền vài ba triệu do các chú bán đất tuyên bố cho riêng trước toàn thể bạn bè lục quân. Có chú biết tôi khó khăn còn cầm luôn cả tiền theo người để hễ tôi đến là cho vay không lấy lãi vô thời hạn. Khi thấy tôi ngần ngại, còn ôn lại những kỷ niệm thời chiến giữa hai anh em, những lần tìm nhau khắp Hà Nội vì vận chuyển cả 13 xe chở hàng qua khu vực bờ sông, muốn quẳng bớt một thùng lương khô cho vợ con Khải Tuân mà không tìm nổi lại biền biệt tin nhau, còn ấm ức đến ngày gặp lại. Biết tôi ngần ngại liền khẳng định: Yên tâm đi, chú còn sống đến ngày cháu trả nợ cho chú cơ mà đừng lo. Ai ngờ trả được cuối tháng trước, thì đầu tháng sau ông đi, như một định mệnh gan ruột trăn trối lại, làm tôi cứ ân hận mãi. Giá tôi không nặng lòng biết ơn, nhận tấm lòng tri ân của ông một cách bình thường, coi như một sự đặc quyền đặc lợi, vay vô thời hạn, biết đâu ông còn ở lại dương thế như lời ông nói: Bác sĩ bảo chú còn sống đến 91 tuổi kia...Lẽ nào vì sự đúng hẹn của mình, chỉ vay trong vòng 1/2 năm sẽ trả, khi nào thiếu lại vay tiếp mà cắt đứt của ông mất 16 năm trời?
21 năm qua rồi kể từ ngày bố tôi mất. Ông chết vì suy dinh dưỡng nặng. Vào thời điểm 1985, sau "giải phóng" mười năm, cả nước cùng ôm nhau ngắc ngoải trong những ô tem phiếu. Nếu những thời điểm trước người dân có câu sấm truyền bất hủ:
Gạo vừa 13 ký, suốt tháng cháo thừa, cơm thiếu, quanh năm no cậy nước,
Vải vừa 400 nghìn phân, suốt ngày quần thiếu, khố thừa, cả đời ấm nhờ da
thì thời điểm giữa 1985 còn khổ ải hơn, chả lấy đâu ra 13 ký gạo cùng 4000 phân vải. Khắp trong các cơ quan xí nghiệp, nơi này nơi kia phải bỏ việc để kéo quân xuống các địa phương tăng gia sản xuất, trồng giống ngắn ngày như ngô, khoai sắn để kéo dài sự sống. Nhà nước coi tính mạng con dân không bằng cỏ rác, cần thì bắt ép dân theo, không cần thì vứt xuống dưới chân, sống chết mặc bay, đảng này không ngán. Thế là ra chỉ thị cho các cơ quan xí nghiệp, hộ dân phải tự túc lương thực 3 tháng. Hết 3 tháng này rồi lại 3 tháng khác. Sự nghèo, cái đói cứ như một sợi dây thòng lọng treo lơ lửng trên đầu mỗi người. Nhà tôi cũng không ra ngoài quỹ đạo đó, đói dai dẳng, đói triền miên, đến mức nhìn đứa trẻ con ăn một tấm miá, hoặc quả chuối cũng thèm chảy nước miếng. Gạo ăn không đủ làm sao dám nghĩ đến chuyện ăn quà vặt…Vốn là người quen chịu đựng, ông không hề phàn nàn vợ con điều gì, chỉ lẳng lặng chịu đựng rồi như ngọn đèn cạn dầu, ruỗng bấc không thể toả sáng tiếp tục, ông lặng lẽ tắt đi, chỉ để lại cho đời một tấm giấy duy nhất, cũng là lời tuyên bố chính thức của ông với đảng cộng sản " bất diệt": Đơn xin ra khỏi đảng.
Ngày biết mình sắp đi, ông đưa mắt nhìn tôi ra hiệu bảo tôi ngồi xuống bên ông rồi bảo:
-Bố biết con còn hận bố nhiều lắm, rồi cuộc đời sẽ dạy con cách nhìn nhận mọi vấn đề con ạ. Dù sao, bố tin con trẻ người, nhưng không non dạ, con sẽ là người hiểu bố nhiều nhất, sẽ chứng minh cho mọi sự lầm lạc của bố trên đời. Kinh dịch bảo: Bố tìm thấy con gái, mẹ tìm thấy con trai. Con đúng là đứa con mà bố đã tìm thấy. Bố ra đi hận vì mình chưa làm gì cho mẹ và các con, chỉ u mê, ảo tưởng, lầm lạc về một thứ chủ nghĩa mơ hồ, vì một lý tưởng bị bội phản. Hy vọng thế hệ các con không dễ bị đầu độc như vậy.
25 tuổi đầu tôi không hiểu ông định nói gì, chỉ kịp nghe trong khu tập thể râm ran những lời đồn đại về ông:
-Thằng Khải Tuân ngu quá, cả cuộc đời theo cách mạng, đồ đạc của nả chả có gì, chỉ để lại cho vợ con mỗi danh thơm là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam mà trước khi chết lại nằng nặc làm đơn ra khỏi đảng, mà 38 năm tuổi đảng có ít đâu.
Rồi :
-Thằng ấy thật là ích kỷ, cả chi bộ đến khuyên giải, động viên nó yên tâm dưỡng bệnh, đừng nghĩ quẩn, mà nó không nghe, cứ một mực chối từ: "Không, đây là đề nghị chính đáng của tôi, nếu tôi chết tôi sẽ tìm gặp Các Mác, Lê Nin để tranh luận cho ra, ông ta là ai mà cụ Hồ u mê thế.? Một sai lầm của lãnh đạo, cả dân tộc phải trả giá bằng bao nhiêu năm, dân tộc Việt Nam đã trả giá cho việc sản sinh ra Hồ chủ tịch, còn tiếp tục trả giá cho các thế hệ Hồ Chí Minh 2,3,4,5 hay 6,7 nữa?
Lời của ông nghịch tử quá, khiến ông bạn già trợn mắt:
- Anh có thôi đi không, nếu anh không nghĩ đến anh thì cũng phải nghĩ cho cháu Thuỷ con anh chứ.
Không để cho người bạn cùng chi bộ thuyết giáo, ông la lên:
- Không, con gái tôi không thể sống giữa lòng đảng được, khi bản thân bố nó đã bị đảng lừa đến trắng mắt trắng tay... Rồi ông khóc rưng rức như trẻ nhỏ, ông bảo:
- Nếu ngày ấy tôi không bị đảng “giác ngộ” từ khi học lớp 7 trường Bưởi, thì đâu đến nỗi gây ra những chuyện nghịch tử, tày trời như thế. Nào bắt bố đẻ từ quan khi đang là thông ngôn (phiên dịch) cho Pháp, một mình ông nắm bắt một ngôn ngữ, khiến cả làng, cả tổng phải nhờ cậy. Tôi không lấy đó làm điều tự hào lại còn nghe lời đảng kết tội ông đi theo thực dân đế quốc, phản dân hại nước, và khăng khăng bắt ông phải ở nhà viết giấy thôi việc, đến mức sau một tháng ông mắc bệnh nhồi máu cơ tim, chết khi tuổi đời vừa tròn 48. Anh ruột tôi học trường Albert Sarraut, cũng không thoát nổi kết cục này, bị tôi áp đặt, chỉ thẳng vào mặt, quát: “Đồ bám đít đế quốc, cút, cút ra khỏi nhà ngay”.
Chỉ vì tôi khăng khăng bảo vệ lý tưởng cộng sản, còn anh bĩu môi bảo: "Chú tin thế à, tôi thì chả tin gì khi những mụ buôn thúng bán mẹt ngồi giãi thoải bán bấc đèn dầu ở vỉa hè hôm trước, hôm sau thành tổ trưởng khu phố. Xã hội nào cũng phải dựa trên tri thức, trình độ chứ. Để mấy con mẹ ấy lên làm lãnh đạo có khác gì để cho văn hoá sơ đẳng bóp chết văn hoá truyền thống, văn hoá siêu đẳng, có mà loạn... Chả cần chú đuổi thì tôi cũng đi, tôi vào Nam theo nghề của bố. Chú ở lại chăm sóc mẹ giúp tôi"... Thế là cùng một lúc tôi mất cả anh lẫn bố. Bây giờ sắp chết rồi, anh tôi còn ở tận nước Pháp xa xôi, gần 40 năm rồi anh em không nhìn thấy mặt nhau, anh ơi"...
Giờ thì tôi đã yên vị với cái tên độc đáo của mình. Xét cho cùng, cái tên đâu phải là quan trọng, là yếu tố quyết định địa vị và tên tuổi con người.Quan trọng là giá trị đích thực người đó để lại trên đời, gom góp cho trõ mật văn chương của đời. Danh ngôn bảo: Mang tên một con người thì dễ, làm được như người đó mới khó. Cái áo choàng chẳng làm nên thầy tu, nếu thầy chỉ là một thứ vô hình vô ảnh thì dù áo có sặc sỡ đặc biệt đến mấy cũng không ai nhận ra thầy giữa biển người đông đặc đám con chiên thầy bà đủ loại. Ngược lại nếu thầy cả đời miệt mài như một con ong mật tạo nên hương vị riêng cho đời thì cái áo mới trở nên có ý nghiã. Cái tên của tôi cũng vậy. Dẫu có ngang phè phè nhưng không thể là thứ nước lã nhạt thèo không màu, không mùi, không vị.
Với gia tài thực sự là vài chục cuốn sách (in trong nước), và hàng nghìn bài báo tôi để lại cho đời, bao gồm đủ các thể loại thơ, phóng sự, bút ký, phê bình, truyện ngắn cho cả đối tượng nhi đồng và người lớn, trong đó có cả trăm bài in ở hải ngoại về dân oan Việt Nam, về đảng độc tài, thối nát, về vị cha già ...dâm tặc. Chơi hoa rồi lại bẻ cành đem chôn", tôi vẫn không tin cái tên mình sẽ đi vào lịch sử. Chỉ từ sau ngày tôi bị đảng "oánh" ... Trước đó, thay vì câu hát dối lừa hàng ngày vẫn phát đi phát lại trên đài vào những ngày kỷ niệm : "Đảng đã cho tôi lẽ sống niềm tin", thì từ ngày bố mất, lây nhiễm tâm trạng của bố trong lá đơn xin ra khỏi đảng, trong bài thơ để lại, với riêng tôi đảng đã cho tôi... mất hết niềm tin rồi. Càng ngày bộ mặt thật của đảng càng lòi ra. Càng ngày những dòng thơ tâm đắc mà bố tôi viết lại trước khi mất càng hiện hình rõ nét hơn.
Khát vọng đổi đời nán đợi thôi
Trăm năm toi mất 65 rồi
Mê trò cách mạng bao năm uổng
Tỉnh giấc ngu lâu một kiếp toi
Đất khách bao người ôm quốc hận
Quê nhà mấy kẻ xót Hùng nòi*
Dân tình oán khổ đầy oan khốc
Hết bĩ lại lai, nán đợi coi
Nhờ việc làm tài tình sáng suốt của đảng, đánh người lương thiện, bóp nghẹt tự do ngôn luận mà trước mắt mọi người, tôi vô tình thành người có giá, đủ cả "tai, tiếng, tên, tuổi" nếu chỉ trông vào sức lực nhỏ nhoi của mình, làm sao tôi kê nổi chỗ đứng giữa lòng bạn đọc hải ngoại?
Thơ cổ nói:
Trăm năm một sợi chỉ hồng,
Buộc người tài sắc vào trong khuôn trời
Bây giờ thì tôi tin, ít nhất cũng phải đủ 100 năm sau (từ 2060 trở đi) mới có một Trần Khải Thanh Thuỷ Zoia thứ hai chào đời... và không lệ thuộc vào bất cứ Đảng phái nào hết, không cần bị Đảng đánh mà vẫn được nổi danh.
Hang đá 20-9-2006
Trần Khải Thanh Thuỷ
Trần Khải Thanh Thuỷ
“… Bố ra đi hận vì mình chưa làm gì cho mẹ và các con, chỉ u mê, ảo tưởng, lầm lạc về một thứ chủ nghĩa mơ hồ, vì một lý tưởng bị bội phản. Hy vọng thế hệ các con không dễ bị đầu độc như vậy …”
Anh không chấp nhận, tôi không yên lòng nhắm mắt, xuống suối vàng. Tôi, tôi họ Trần, đệm Khải và Thanh. Nhiều người thắc mắc vì cái tên dài dằng dặc của tôi. Khi biết tôi có gia đình, lại cho rằng chữ Khải ấy là tên người bạn đời của tôi... Quả là sự nhầm lẫn thú vị, vì có đề cao giá trị của hôn nhân đến mấy, tôi cũng không có được ý tưởng lãng mạn đó, huống hồ tôi nhìn nhận hôn nhân ở góc độ hết sức biện chứng và đời thường: Hôn nhân là một sự cộng gộp, sung sướng gấp đôi và đau khổ cũng gấp đôi (Lạy chuá, nếu người ta biết kìm hãm và tự điều tiết mình, ngược lại, để chốt hãm bật tung khỏi van điều tiết thì sự đau khổ, tôi tin là gấp... bội, chứ không thể là gấp bốn, gấp đôi nữa. Không tin bạn hãy thử mà xem(!)
Xin quay ngược lại 46 năm về trước, giữa trưa mùa đông lạnh giá tôi cất tiếng chào đời. Sự ra đời của tôi dẫu không phải "tình cờ" cũng không có gì đặc biệt. Xem trong tiểu sử của các vĩ nhân, tôi luôn bắt gặp những dòng chữ: Tôi sinh ra trong một đêm mưa gió. Thay vì những giấc mơ tiên tri báo hiệu sự ra đời của đứa con danh nhân, thần đồng như những bà mẹ may mắn khác, mẹ tôi chỉ có cảm giác đói, bà hoàn toàn không ngờ tôi có thể chào đời nhanh thế, khi 2 ngày trước bà đi khám, bác sĩ bảo ít nhất cũng còn một tháng nữa, tốt nhất nửa tháng sau quay lại mới có thể biết ngày mãn nguyệt khai hoa... Sáng hôm ấy bà đi làm như bình thường và suýt nữa thì đẻ rơi tôi trên những bậc cầu thang nơi bà làm việc (Viện thiết kế Thủy Lợi, bộ Thủy Lợi). Khi dấu hiệu của sự vượt cạn đến gần, bà lâm râm đau bụng, toàn thân là một sự chuyển rung dữ dội, không đứng, không ngồi được, cứ phải cúi lom khom. Một người đồng nghiệp lớn tuổi -cũng là chị em kết nghiã- quả quyết bà sắp đẻ, vội vàng gọi xích lô, ấn bà vào. Nể lời, bà đành phải theo chị bạn đến viện để khám lại, nhưng vẫn đinh ninh theo lời bác sĩ, chỉ là đau bụng thông thường do đói lạnh, hay tối hôm trước ăn phải cái gì không lành, vì tính tháng tính ngày mới được có tám tháng...Vừa kịp trèo lên bàn, một phần cơ thể tôi đã lộ ra... bác sĩ la tá hỏa, ấn luôn bà vào cái bàn định mệnh đó, thế là...đẻ. Đơn giản như gà đẻ trứng vậy, trong khi sáng ra bà chưa kịp gia cố dạ dày, nên đói ngấu, lạnh run người đến mức chính y tá đỡ đẻ phải nhường cơm sẻ áo cho bà (đến bây giờ tôi vẫn không hiểu sao hồi ấy lại có người tốt đến thế, chứ tôi đã hai lần sinh nở, hễ không có tiền lót ổ, thì lương y thành... hà bá, thầy thuốc kiêm mẹ mìn ngay).
Bố tôi vốn dòng dõi khoa bảng, khi sinh, ông muốn con cái -không những sao chép trọn vẹn hệ ADN còn phải mang cả dấu ấn tên tuổi của mình, vì thế bốn anh em tôi, dù trai hay gái đều có đệm Khải như một dấu ấn nghìn đời của tổ tiên để lại (Trừ khi dòng họ Trần Khải bị tuyệt diệt hoặc vì một lý do nào đó phải thay tên đổi họ).Vốn là người giản dị, không ưa cầu kỳ, cái tên... đa âm, đa tạp này làm tôi khốn khổ suốt 30 năm trời. Để đơn giản hóa con người mình, dễ hòa nhập với đám đông cây cỏ, hoa lá, rác rưởi, sình lầy trên dòng sông cuộc đời, tôi thường bỏ rơi chữ Khải hoặc thay bằng đệm Thị, nào ai ngờ cái tên ấy luôn bị trùng lặp, dễ lẫn với bạn bè cùng trường, lớp nên không được chấp nhận. Đặc biệt trong các kỳ thi vượt rào, vượt tuyến cấp I, cấp II. Hồ sơ lý lịch ghi rõ rành rành, cấm có thay đổi được, đành nén lòng, kìm mình làm lại, để thẻ học sinh trùng với giấy khai sinh trong lý lịch tự thuật. Xét cho cùng, bài thi có lọt qua được hàng rào khắc nghiệt này, điểm thi cũng không được công nhận... 12 năm, ứng với 24 kỳ thi, tôi vẫn không thể quen với cái tên quá đặc biệt, phi lô gích của mình. Trong sổ đầu bài bao giờ nó cũng lòi ra cả một đống chữ và là mục tiêu đầu tiên gây sự chú ý của giáo viên, mỗi khi gọi lên bảng kiểm tra miệng đầu giờ. Nếu không, bao giờ cũng gây phản ứng cả nhiều phiá giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn và lũ học bạn cùng lớp: -"Tên gì mà loằng ngoằng thế này?" Hoặc: "Tên với chả tuổi, nghe cứ ngang phè phè". Trong lớp có một cô Trần Thanh Thuỷ khác, vừa điệu vừa học kém, khiến tôi không thể "lẩn khoản" cái tên cha sinh mẹ đẻ của mình. Nhiều người quen tay đề Trần Thị Thanh Thuỷ , khi phát hiện ra vẫn thiếu chữ đệm liền thêm chữ Khải vào giữa, khi đọc lên đủ cả năm chữ: Trần Khải Thị Thanh Thuỷ hoặc Trần Thị Khải Thanh Thuỷ làm tôi đỏ bừng mặt, còn lũ "nhất quỷ nhì ma" thì được dịp cười rũ...Đau lòng hơn, để khỏi gọi tên dài ngoãng lại phân biệt với cô bạn Thuỷ kia, chúng gọi tắt tôi là Khải Thủy. Thật như hai càng nhọn hoắt của con cua chọc thẳng vào hông.
17 tuổi tôi không làm nổi chứng minh thư còn vì một lý do tế nhị, động trời hơn. Bố tôi vốn sính chữ, mê anh hùng thế giới hơn cả con mình nên ghép tên các anh hùng vào tên con như tôi là Trần Khải Thanh Thuỷ Zôia, còn em tôi là Trần Khải Ca Tanmal...v.v. Tôi đã khóc nửa ngày khi mọi lý do đưa ra đều không được chấp nhận, dù vẻ mặt hình thể khi ấy, tôi rất đáng thương, song xét về nguyên tắc, nếu tôi không trung thực với cái tên cha sinh mẹ đẻ của mình thì không thể có quyền công dân - nghiã là được cấp chứng minh thư như bao người khác
Sau một hồi an ủi động viên tôi về ý nghiã cao đẹp của cái tên đặc biệt đó, vừa là đệm Khải và Thanh của cả bố lẫn mẹ, là chiếc cầu xinh bắc ngang hai bờ tình yêu của bố mẹ, lại là nữ anh hùng Liên xô, vẫn không kéo tôi ra khỏi cơn hờn giận tức tưởi, bố tôi chán ngán, nói sẵng: "Thôi thì tùy mày, chờ đủ 18 tuổi có quyền công dân, tự đi mà thay tên đổi họ".
Tôi chỉ thực sự bừng tỉnh sau bao lần mất nhuận bút. Tuy tốt nghiệp đại học sư phạm khoa sinh - kỹ thuật nông nghiệp (thường bị gọi chệch là khoa lông gà lông vịt), song tôi rất thích viết và đã thử sức mình trên mặt báo ngay khi vừa ra khỏi trường. Cái tên Trần Thanh Thuỷ chẳng gợi lên điều gì tốt đẹp, nếu tôi không ghi đầy đủ địa chỉ, số nhà, lập tức số tiền còm bốc bay ngay. Khi tôi đọc báo, biết tin, về tòa soạn lấy, thì người ta đã chuyển cho một phóng viên báo Hà Nội hoặc Lao Động từ tám hoánh nào rồi, không ai nghĩ tác giả chỉ là một giáo viên bản, làng như tôi. Hè 1986, tôi vào Nam, đem cả tập bài vào theo, không ngờ chưa đầy hai tuần lại sấp ngửa ra đi, tôi chỉ kịp ném nửa số bài vào tòa soạn báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh và nửa còn lại vào báo Khăn quàng đỏ. Với lĩnh vực thiếu nhi, tôi may mắn hơn, gửi bài trực tiếp cho biên tập viên Lê Việt Nga, sau hai ngày đọc một mạch 20 bài của tôi, chị hồ hởi bảo: "Bài của em được lắm, từ ngày làm phóng viên trực trang đến giờ, chị nhận cả nghìn bài, nhưng không bao giờ xài tới phân nửa như của em, thậm chí nếu bí bài, thì xài hết luôn em à".
Họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai, khi tôi tìm ra được địa chỉ báo Phụ nữ để mò đến chỉ được nhân viên ban bạn đọc tiếp, lịch sự nhưng khách sáo. Vì vội, tôi để bài lại tòa soạn rồi theo đoàn lên tàu ra Bắc ngay, không hề biết số phận của những đứa con tinh thần của mình thế nào!
Trở về trường, tâm trí tôi còn để cả ở những bài báo. Tôi cứ tự trách mình rằng bản thảo đâu phải đứa con hoang, sao có thể cẩu thả như thế, chỉ ghi tên họ chung chung không hề có địa chỉ ở lại, không biết số phận chúng sẽ ra sao? Sau đó tôi gặp nhà văn Phong Thu, biết ông cũng cộng tác với vài tờ báo phiá Nam, trong đó có báo Phụ nữ thành phố Hồ Chí Minh liền nhờ ông hỏi hộ. Hóa ra tất cả số bài được in đã chuyển nhuận bút cho tác giả rồi. Tra trong các báo họ thấy có một phóng viên nữ là Trần Thanh Thuỷ thường gọi là Thủy đen ở báo Lao động, họ đã gửi đến đó. Tôi tất tưởi tìm đến thì ôi thôi, chỉ được một lời giải thích: ừ, mình cũng băn khoăn mãi, không biết ai đã gửi báo kính biếu để mình đọc, lại còn gửi cả tiền cho mình tiêu nữa, lại không chỉ một lần. Hóa ra trên đời này có tới hai bà Trần Thanh Thuỷ bằng xương bằng thịt cơ à? Khéo nhảy ?
Tiền chị Thủy đã tiêu từ tám hoánh nào rồi, tôi chỉ xin chị những số báo có đăng bài để giữ làm kỷ niệm, chị sốt sắng nhận lời, để rồi bao nhiêu lần sau đó (không chỉ riêng một việc này) đều chỉ là một ngụm nước lã đun sôi để nguội tiếp tôi chứ chẳng có bát nước xáo, hoặc tờ báo nào cả. Đơn giản, chị bảo, lâu ngày quá rồi chị không biết ở đâu mà tìm. Làm một phóng viên như chị, chỉ vài hôm là bài vở tài liệu ngập lên tận mặt, không biết ai đọc lấy đi, cho ai xem, ai mượn hay dúi vào đâu"... Thành thật suốt cả năm trời làm quen với chị tôi không ngờ chị có thể hứa dễ dãi đến thế, mức siêu cuội như Trần Đăng Khoa với biệt hiệu nhà văn Trung Trung Đỉnh đặt: "Thằng Cuội ngồi gốc cây thơ" cũng không thể bằng. Tiền chỉ là chuyện nhỏ nhưng công sức và thời gian tôi bỏ ra sau đó trong những bài viết về các vụ việc tiêu cực ở trường nơi tôi dạy (Kỳ Sơn B Hà Sơn Bình) đâu phải là chuyện vặt!... Thế mà tôi cứ tin ở con người, ở lời hứa rằng hứa là nợ, nợ thì phải trả, không thể quỵt được, rằng một lời đã trót nói ra dẫu rằng 4 ngựa cố mà đuổi theo. Bao nhiêu công sức nhiệt huyết của những ngày đầu cầm bút tôi trao cả cho chị, tiếc thay thời điểm 1986, 1987 ấy lại chưa hề có máy phô tô copy hoặc máy tính, chỉ đơn thuần là viết tay... Khi phát hiện ra chị chỉ là một kẻ luôn hứa hão...thì tôi cũng trắng tay vì bản thảo không thể lấy lại được nữa. Có lẽ câu tin bạn mất bò luôn đúng trong trường hợp tôi lúc bấy giờ. Chỉ có điều bò mất còn có thể sắm lại được, còn những bản thảo mà tôi đã viết bằng tất cả công sức trí lực tình cảm của mình lúc đó, không thể viết ra được lần thứ hai, dù sau này tôi có là thợ viết, nhai phóng sự rau ráu, điều tra các sự việc tinh thông lão luyện đi chăng nữa, cũng không thể viết lại như cũ được .
Vừa không thể để mất "khúc ruột" của mình (đồng tiền liền khúc ruột) vừa không bị đánh đồng với một người dễ dãi như thế trong làng báo, tôi quyết định lấy lại đệm Khải của mình trong mọi bài viết (tất nhiên còn cả bút danh là tên chồng và hai cô con gái khi đã lập gia đình nữa). Tên Trần Thanh Thuỷ chỉ xuất hiện ở những bài mà tôi cho là không quan trọng, xoàng xoàng mà thôi. Tuy không làm hàng chợ, hoặc vì mưu sinh, đôi khi tôi buộc phải làm, thì mức độ hàng chợ của tôi cũng luôn cẩn trọng, như các mặt hàng của Trung Quốc vậy, người có kinh nghiệm biết phân biệt thì chọn được hàng loại I, tức trung ương, còn không gặp hàng địa phương loại 2, 3. Bản thân tôi luôn ghét sự cỏ giả. Vì thế tuy rất luộm thuộm trong đời thường nhưng với chữ nghiã luôn là sự lao động nghiêm túc, hết mình. Nếu bài chưa hay, chưa chuẩn, thì do nhận thức vốn sống của tôi chưa tới, chứ không phải do ẩu, do vội vã, tắc trách.
Từ ngày lấy lại đầy đủ họ tên, tôi không gặp phải rắc rối nào nữa, chưa kể như một sự "nhất nước". Bao lần bản thảo gửi đi, không địa chỉ, điện thoại tôi vẫn được lĩnh nhuận bút như thường, vì bạn bè đọc được, qua điện thoại mà thông báo cho tôi, khi tôi còn nghi hoặc, bao giờ cũng được khẳng định: "Khổ quá, nhầm làm sao được, đúng là Trần Khải Thanh Thuỷ mà, còn ai có đệm Khải ở giữa như bà nữa đâu". Rồi: "Ôi giời cái chất giọng cứ tưng tửng như vậy, "ngửi" là ra ngay mà!”. Thế là tôi gọi điện thoại vào yêu cầu toà soạn gửi nhuận bút hoặc gần thì ung dung đến lấy, trăm lần không chệch. Hồi vừa làm nhà (1996) tôi nhớ lương chỉ 400.000đồng, mà riêng nhuận bút thơ có tháng lên tới 550.000 đồng nhờ đệm Khải ấy, người trong tòa soạn bực mình đố kỵ thấy tôi có giấy báo lĩnh tiền không chịu báo lại, nhưng bưu điện gửi hết lần nầy đến lần khác, cuối cùng châu về hợp phố.
Cũng nhờ đêm Khải ấy mà tôi gặp may. Bố tôi trước vốn là người thông minh dĩnh ngộ, đẹp về hình thể lại giỏi về chữ nghiã. Ông biết 6 ngoại ngữ và am hiểu hầu hết các lĩnh vực văn hoá khoa học. Bạn bè cùng lục quân khóa 4, trường sĩ quan lục quân Trần Quốc Tuấn với ông kể: "Chú trưởng thành được là nhờ bố cháu, con nhà nghèo có được học hành gì đâu. Vào bộ đội, thèm chữ như thèm gái. Biết bố mày hay chữ sán đến, những tưởng cưỡi ngựa xem hoa, học hành ba chữ lem nhem, có méo mó hơn không thôi, ai ngờ bố mày là người hiểu biết thấu đáo, kèm cặp dạy dỗ rất bài bản, chiều nào, tối nào cũng ốp học, ít nhất là 2 -3 tiếng, bù lại mọi công việc giặt giũ, gấp chăn màn, chẻ củi, lấy nước là tao lo, mà kỷ luật quân đội đâu có lơ tơ mơ được. Sáng ra, nhảy ào xuống suối, tay trái đánh răng, tay phải khoắng quần áo, hai chân kẹp xô chậu, chăn màn...cuống cà kê lên. Cũng may bố mày chỉ cầu kỳ khó tính trong văn chương, chữ nghiã, còn cực kỳ dễ tính trong đời thường. Ăn thế nào cũng được, mặc thế nào cũng xong..." Ra trường, như những cánh đại bàng sải cánh bay khắp các chiến trường miền Nam, bẵng đi vài chục năm, ngày giải phóng trở về ngậm ngùi nhận tin bố tôi ốm, mất, lại vô tình đọc bài thơ hoặc văn tôi trên sách báo, chỉ nhờ đệm Khải và chất giọng, các cô chú khẳng định: Đúng nó là con thằng bạn Khải Tuân rồi, bèn bảo nhau đi tìm, địa chỉ không có, chỉ mang máng biết tôi ở Hà Nội, trong khu tập thể của trường đại học Thủy Lợi, cứ lao đi, người ba lần, người năm lần đưa vợ con theo để tìm gặp vợ và con gái anh Khải Tuân. Tìm được đến tôi thì ngồi ụp xuống, ôm gối mà khóc vì mừng vì tủi, vì tìm được tới gia đình cháu qua 40 năm bằn bặt. Giờ hai đầu gối chú đang reo hát trên nền gạch vì vui sướng đây này.
Mối quan hệ ngay sau đó được xác lập.Tôi được nhận về tất cả tình cảm yêu quý chân thành mà lẽ ra bố tôi được hưởng, từ cuộc gặp mặt hàng năm. Những chuyến đi xa cả hai mẹ con đều được tài trợ, khoản tiền vài ba triệu do các chú bán đất tuyên bố cho riêng trước toàn thể bạn bè lục quân. Có chú biết tôi khó khăn còn cầm luôn cả tiền theo người để hễ tôi đến là cho vay không lấy lãi vô thời hạn. Khi thấy tôi ngần ngại, còn ôn lại những kỷ niệm thời chiến giữa hai anh em, những lần tìm nhau khắp Hà Nội vì vận chuyển cả 13 xe chở hàng qua khu vực bờ sông, muốn quẳng bớt một thùng lương khô cho vợ con Khải Tuân mà không tìm nổi lại biền biệt tin nhau, còn ấm ức đến ngày gặp lại. Biết tôi ngần ngại liền khẳng định: Yên tâm đi, chú còn sống đến ngày cháu trả nợ cho chú cơ mà đừng lo. Ai ngờ trả được cuối tháng trước, thì đầu tháng sau ông đi, như một định mệnh gan ruột trăn trối lại, làm tôi cứ ân hận mãi. Giá tôi không nặng lòng biết ơn, nhận tấm lòng tri ân của ông một cách bình thường, coi như một sự đặc quyền đặc lợi, vay vô thời hạn, biết đâu ông còn ở lại dương thế như lời ông nói: Bác sĩ bảo chú còn sống đến 91 tuổi kia...Lẽ nào vì sự đúng hẹn của mình, chỉ vay trong vòng 1/2 năm sẽ trả, khi nào thiếu lại vay tiếp mà cắt đứt của ông mất 16 năm trời?
21 năm qua rồi kể từ ngày bố tôi mất. Ông chết vì suy dinh dưỡng nặng. Vào thời điểm 1985, sau "giải phóng" mười năm, cả nước cùng ôm nhau ngắc ngoải trong những ô tem phiếu. Nếu những thời điểm trước người dân có câu sấm truyền bất hủ:
Gạo vừa 13 ký, suốt tháng cháo thừa, cơm thiếu, quanh năm no cậy nước,
Vải vừa 400 nghìn phân, suốt ngày quần thiếu, khố thừa, cả đời ấm nhờ da
thì thời điểm giữa 1985 còn khổ ải hơn, chả lấy đâu ra 13 ký gạo cùng 4000 phân vải. Khắp trong các cơ quan xí nghiệp, nơi này nơi kia phải bỏ việc để kéo quân xuống các địa phương tăng gia sản xuất, trồng giống ngắn ngày như ngô, khoai sắn để kéo dài sự sống. Nhà nước coi tính mạng con dân không bằng cỏ rác, cần thì bắt ép dân theo, không cần thì vứt xuống dưới chân, sống chết mặc bay, đảng này không ngán. Thế là ra chỉ thị cho các cơ quan xí nghiệp, hộ dân phải tự túc lương thực 3 tháng. Hết 3 tháng này rồi lại 3 tháng khác. Sự nghèo, cái đói cứ như một sợi dây thòng lọng treo lơ lửng trên đầu mỗi người. Nhà tôi cũng không ra ngoài quỹ đạo đó, đói dai dẳng, đói triền miên, đến mức nhìn đứa trẻ con ăn một tấm miá, hoặc quả chuối cũng thèm chảy nước miếng. Gạo ăn không đủ làm sao dám nghĩ đến chuyện ăn quà vặt…Vốn là người quen chịu đựng, ông không hề phàn nàn vợ con điều gì, chỉ lẳng lặng chịu đựng rồi như ngọn đèn cạn dầu, ruỗng bấc không thể toả sáng tiếp tục, ông lặng lẽ tắt đi, chỉ để lại cho đời một tấm giấy duy nhất, cũng là lời tuyên bố chính thức của ông với đảng cộng sản " bất diệt": Đơn xin ra khỏi đảng.
Ngày biết mình sắp đi, ông đưa mắt nhìn tôi ra hiệu bảo tôi ngồi xuống bên ông rồi bảo:
-Bố biết con còn hận bố nhiều lắm, rồi cuộc đời sẽ dạy con cách nhìn nhận mọi vấn đề con ạ. Dù sao, bố tin con trẻ người, nhưng không non dạ, con sẽ là người hiểu bố nhiều nhất, sẽ chứng minh cho mọi sự lầm lạc của bố trên đời. Kinh dịch bảo: Bố tìm thấy con gái, mẹ tìm thấy con trai. Con đúng là đứa con mà bố đã tìm thấy. Bố ra đi hận vì mình chưa làm gì cho mẹ và các con, chỉ u mê, ảo tưởng, lầm lạc về một thứ chủ nghĩa mơ hồ, vì một lý tưởng bị bội phản. Hy vọng thế hệ các con không dễ bị đầu độc như vậy.
25 tuổi đầu tôi không hiểu ông định nói gì, chỉ kịp nghe trong khu tập thể râm ran những lời đồn đại về ông:
-Thằng Khải Tuân ngu quá, cả cuộc đời theo cách mạng, đồ đạc của nả chả có gì, chỉ để lại cho vợ con mỗi danh thơm là đảng viên đảng cộng sản Việt Nam mà trước khi chết lại nằng nặc làm đơn ra khỏi đảng, mà 38 năm tuổi đảng có ít đâu.
Rồi :
-Thằng ấy thật là ích kỷ, cả chi bộ đến khuyên giải, động viên nó yên tâm dưỡng bệnh, đừng nghĩ quẩn, mà nó không nghe, cứ một mực chối từ: "Không, đây là đề nghị chính đáng của tôi, nếu tôi chết tôi sẽ tìm gặp Các Mác, Lê Nin để tranh luận cho ra, ông ta là ai mà cụ Hồ u mê thế.? Một sai lầm của lãnh đạo, cả dân tộc phải trả giá bằng bao nhiêu năm, dân tộc Việt Nam đã trả giá cho việc sản sinh ra Hồ chủ tịch, còn tiếp tục trả giá cho các thế hệ Hồ Chí Minh 2,3,4,5 hay 6,7 nữa?
Lời của ông nghịch tử quá, khiến ông bạn già trợn mắt:
- Anh có thôi đi không, nếu anh không nghĩ đến anh thì cũng phải nghĩ cho cháu Thuỷ con anh chứ.
Không để cho người bạn cùng chi bộ thuyết giáo, ông la lên:
- Không, con gái tôi không thể sống giữa lòng đảng được, khi bản thân bố nó đã bị đảng lừa đến trắng mắt trắng tay... Rồi ông khóc rưng rức như trẻ nhỏ, ông bảo:
- Nếu ngày ấy tôi không bị đảng “giác ngộ” từ khi học lớp 7 trường Bưởi, thì đâu đến nỗi gây ra những chuyện nghịch tử, tày trời như thế. Nào bắt bố đẻ từ quan khi đang là thông ngôn (phiên dịch) cho Pháp, một mình ông nắm bắt một ngôn ngữ, khiến cả làng, cả tổng phải nhờ cậy. Tôi không lấy đó làm điều tự hào lại còn nghe lời đảng kết tội ông đi theo thực dân đế quốc, phản dân hại nước, và khăng khăng bắt ông phải ở nhà viết giấy thôi việc, đến mức sau một tháng ông mắc bệnh nhồi máu cơ tim, chết khi tuổi đời vừa tròn 48. Anh ruột tôi học trường Albert Sarraut, cũng không thoát nổi kết cục này, bị tôi áp đặt, chỉ thẳng vào mặt, quát: “Đồ bám đít đế quốc, cút, cút ra khỏi nhà ngay”.
Chỉ vì tôi khăng khăng bảo vệ lý tưởng cộng sản, còn anh bĩu môi bảo: "Chú tin thế à, tôi thì chả tin gì khi những mụ buôn thúng bán mẹt ngồi giãi thoải bán bấc đèn dầu ở vỉa hè hôm trước, hôm sau thành tổ trưởng khu phố. Xã hội nào cũng phải dựa trên tri thức, trình độ chứ. Để mấy con mẹ ấy lên làm lãnh đạo có khác gì để cho văn hoá sơ đẳng bóp chết văn hoá truyền thống, văn hoá siêu đẳng, có mà loạn... Chả cần chú đuổi thì tôi cũng đi, tôi vào Nam theo nghề của bố. Chú ở lại chăm sóc mẹ giúp tôi"... Thế là cùng một lúc tôi mất cả anh lẫn bố. Bây giờ sắp chết rồi, anh tôi còn ở tận nước Pháp xa xôi, gần 40 năm rồi anh em không nhìn thấy mặt nhau, anh ơi"...
Giờ thì tôi đã yên vị với cái tên độc đáo của mình. Xét cho cùng, cái tên đâu phải là quan trọng, là yếu tố quyết định địa vị và tên tuổi con người.Quan trọng là giá trị đích thực người đó để lại trên đời, gom góp cho trõ mật văn chương của đời. Danh ngôn bảo: Mang tên một con người thì dễ, làm được như người đó mới khó. Cái áo choàng chẳng làm nên thầy tu, nếu thầy chỉ là một thứ vô hình vô ảnh thì dù áo có sặc sỡ đặc biệt đến mấy cũng không ai nhận ra thầy giữa biển người đông đặc đám con chiên thầy bà đủ loại. Ngược lại nếu thầy cả đời miệt mài như một con ong mật tạo nên hương vị riêng cho đời thì cái áo mới trở nên có ý nghiã. Cái tên của tôi cũng vậy. Dẫu có ngang phè phè nhưng không thể là thứ nước lã nhạt thèo không màu, không mùi, không vị.
Với gia tài thực sự là vài chục cuốn sách (in trong nước), và hàng nghìn bài báo tôi để lại cho đời, bao gồm đủ các thể loại thơ, phóng sự, bút ký, phê bình, truyện ngắn cho cả đối tượng nhi đồng và người lớn, trong đó có cả trăm bài in ở hải ngoại về dân oan Việt Nam, về đảng độc tài, thối nát, về vị cha già ...dâm tặc. Chơi hoa rồi lại bẻ cành đem chôn", tôi vẫn không tin cái tên mình sẽ đi vào lịch sử. Chỉ từ sau ngày tôi bị đảng "oánh" ... Trước đó, thay vì câu hát dối lừa hàng ngày vẫn phát đi phát lại trên đài vào những ngày kỷ niệm : "Đảng đã cho tôi lẽ sống niềm tin", thì từ ngày bố mất, lây nhiễm tâm trạng của bố trong lá đơn xin ra khỏi đảng, trong bài thơ để lại, với riêng tôi đảng đã cho tôi... mất hết niềm tin rồi. Càng ngày bộ mặt thật của đảng càng lòi ra. Càng ngày những dòng thơ tâm đắc mà bố tôi viết lại trước khi mất càng hiện hình rõ nét hơn.
Khát vọng đổi đời nán đợi thôi
Trăm năm toi mất 65 rồi
Mê trò cách mạng bao năm uổng
Tỉnh giấc ngu lâu một kiếp toi
Đất khách bao người ôm quốc hận
Quê nhà mấy kẻ xót Hùng nòi*
Dân tình oán khổ đầy oan khốc
Hết bĩ lại lai, nán đợi coi
Nhờ việc làm tài tình sáng suốt của đảng, đánh người lương thiện, bóp nghẹt tự do ngôn luận mà trước mắt mọi người, tôi vô tình thành người có giá, đủ cả "tai, tiếng, tên, tuổi" nếu chỉ trông vào sức lực nhỏ nhoi của mình, làm sao tôi kê nổi chỗ đứng giữa lòng bạn đọc hải ngoại?
Thơ cổ nói:
Trăm năm một sợi chỉ hồng,
Buộc người tài sắc vào trong khuôn trời
Bây giờ thì tôi tin, ít nhất cũng phải đủ 100 năm sau (từ 2060 trở đi) mới có một Trần Khải Thanh Thuỷ Zoia thứ hai chào đời... và không lệ thuộc vào bất cứ Đảng phái nào hết, không cần bị Đảng đánh mà vẫn được nổi danh.
Hang đá 20-9-2006
Trần Khải Thanh Thuỷ
06 October 2006
Bình Quân Đại Láo
Trần Khải Thanh Thuỷ
(VNN)
Trong phòng hỏi cung, phía ngoài là một chiếc xe tù kềnh càng chắn ngay lối cửa ra vào, tên Bá (cán bộ an ninh trực thuộc bộ công an) cao giọng mỉa mai đầy đắc ý:
- Chị cứ tưởng chị văn hay chữ tốt lắm, hoá ra chị toàn nhại thơ của người khác. Tại sao chị không tự sáng tác mà cứ phải lệ thuộc vào người khác như thế, lại còn dám viết bài phê phán bác là đạo chích thơ văn của người khác nữa chứ...
- Tất nhiên, tôi điềm nhiên trả lời: - Đạo chích là ăn cắp, còn nhại, lại là sự sáng tạo và hoàn toàn được phép.
- Giời ạ, hắn bĩu môi, đôi mắt lươn đầy lòng trắng: - Chị nói thế mà cũng nói được. Nhại còn bằng 4 ăn cắp ấy chứ. Nếu người ta có ăn cắp thật thì cũng chỉ ăn cắp một đoạn, một câu nào đó thôi. Còn chị nhại cả bài của tác giả. Nghĩa là chị không chỉ đạo trích mà còn là đại đạo trích... chị hiểu không?
- Im đi, tôi nóng gáy quát: -Bình thường các người giả ngô giả ngọng, giả câm giả điếc tôi không thèm chấp, chỉ đọc thơ Trần Đăng Khoa cho các người nghe*, huống hồ bây giờ các người câm điếc thực sự.
Bỏ qua ý mỉa mai trong câu trả lời của tôi, tên Bá tiếp tục mở miệng như mở máy:
- Đây này, gã dúi vào tận tay tôi tập sách dày, khẳng định. - Cả tập "Hồ Chí Minh nhân vật trăm mặt nghìn tên" của chị viết riêng về đề tài bác, chiếm tới 1/3 là thơ nhại. Thử hỏi chị giỏi giang gì? Một đứa trẻ con cũng nhại được như chị.
"Công an đúng là một lũ chó săn thật" - tôi thầm nghĩ- "chỉ được đào tạo huấn luyện theo 7 bước cơ bản về nghiệp vụ, để rình mò, cắn người theo lệnh chủ chứ có hiểu biết gì về đạo lý, nhân cách đâu. Nhất là trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật cứ ù ù, cạc cạc như vịt nghe sấm, như dã tràng nghe tôn giáo bể. Đã thế... tôi quyết định đập chết lũ chó... ngoan bác Hồ này, đập một đòn chết cả đôi luôn, cả cha lẫn lũ cháu con - những kẻ đang ngồi giỏng tai nghe ngóng trước mặt tôi đây, để hễ tôi sơ suất là nhâu nhâu vào cắn:
- "Nhai lại của mình thì chóng chán, còn nhai lại của người người khác thì mất vệ sinh",biết không.Từ ngày đầu tiên cầm bút, tôi đã học được quy tắc này nên không bao giờ thèm nhai lại của mình hay đạo trích của người khác. Tôi chỉ nhại và trích dẫn trên cơ sở được phép.
- Thôi đi, hắn bảo: - Chị đừng ảo tưởng, đừng nguỵ biện hay múa rìu qua mắt thợ. Phục vụ trong ngành an ninh lâu rồi, chúng tôi biết rất rõ: Hơn 1 vạn nhà văn, nhà báo Việt Nam, không ai lại thể hiện sự nhai lại như chị cả.
Điên tiết, tôi nhấn mạnh:
- Tôi đã nói rõ rồi, chỉ có lão cha già của các người là thích nhai lại thôi, những thứ mà nhân loại mửa ra từ mấy chục năm, thậm chí 300 năm, thì lão với tư tưởng chó loà, vẫn cứ thích nhai lại, bắt dân tộc phải nhai theo, đó là chủ nghĩa Mác Lê, là tà thuyết cộng sản, hay đơn giản nhất là câu nói hủ lậu của Khổng Tử từ thế kỷ 17: Chúng ta không sợ ít, không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng...sự công bằng đó chỉ áp dụng cho riêng lũ khốn các người thôi, cứ chăng biển hiệu xã hội chủ nghĩa và cờ đỏ sao vàng ra rồi lấy của công làm của riêng là công bằng nhất...
- Thôi đi, hắn không nao núng, quyết dồn tôi vào thế bí: -Chị đừng lạc đề nữa, rõ ràng nói có sách, mách có chứng rành rành ra đây còn gì. Nếu giỏi, chị đã không phải mở ngoặc đề sau mỗi bài viết là nhại theo bài ấy bài nọ của tác giả nọ, tác giả kia, giỏi thì cứ viết theo đúng ý tưởng của mình ấy.
Tôi phẩy tay cho sách rơi xuống bàn, bảo:
- Giai điệu, cấu tứ là của người ta, nhưng lời là của tôi, rõ chưa? Không biết thế nào là "hồn Trương Ba, da Hàng Thịt", là làm sống lại một bài thơ cũ trên cơ sở lời sáng tác mới à?
Nở nụ cười ngô nghê trên đôi môi "thị nở" Bá bày tỏ lòng hoài nghi:
- Dù sao, người tự cho mình là nhà văn, trong quá trình sáng tác không nên lệ thuộc vào bất cứ điều gì, chẳng qua chị không đủ tài, đủ vốn sống để thể hiện sự sáng tạo nên mới phải dựa vào người khác như thế.
Đã phải mượn châm ngôn thế giới ra để nói về sự khác biệt căn bản giữa hình thức nhại và sự "nhai lại", chúng vẫn không hiểu gì, thì có quỳ, có lạy, có giảng giải rách mép ra chúng vẫn không hiểu. Thôi, đành phải trả sự thật về cho sự thật, lấy những dẫn chứng thật để chứng minh vậy.
Nghĩ sao làm vậy, tôi cầm tập bản thảo "mở mắt và nhỏ lệ" của mình, lật giở trang cuối, có bài "Bình... quân đại láo" bảo:
- Được, tôi sẽ cho các người biết, tác dụng của sự nhại như thế nào, xem tôi có sáng tạo không? Có làm sống lại cả một bài thơ mới trên nền cảm xúc cũ không? Có thành công không? Có hay hơn khi tôi chỉ sáng tác đơn thuần, không có giai điệu, nguồn gốc không?
Và tôi ung dung đọc
Như: Đảng Cộng Sản ta từ trước
Vốn sinh tật nói láo đã quen
Tài sản, sông núi đã chia
Hè phố, mặt đường cũng chiếm
Trải từ Lê, Đỗ, Phan, Nông...mấy đời hại nước
Cùng Thọ, Kiệt, Duyệt, Anh...tàn phá thẳng tay
Tuy nhiều ít có lúc khác nhau
Mà tàn bạo thằng nào cũng rứa
Chúng há hốc miệng nghe nhưng vẫn chưa tin, tôi tiếp tục bình:
Nền dân chủ đã trở thành dân chửi
Chủ nghĩa nở ra từ họng súng vô hình
Trại hoả lò nhốt tướng Kim Giang
Thềm đại hội chết tươi phó Quốc (1)
Chân lý bặt tăm, nhức nhối, hãi hùng
Triều đình, chính trị bùng nhùng
Để đến nỗi lòng dân oán thán
Năm Cam thành bố già đảng ta
Thuyết "chăn vua" đẻ ra Tần Thuỷ Hoàng giấu mặt
Quyền lực đỏ đã hoá quyền lực đen
Ra sức tác oai, bắn, giết lộng hành
Vài kẻ cười cợt bỏ đi, cho cái sự bình lếu láo của tôi là không mấy quan trọng. Mặc, tôi tiếp tục mượn giọng của "Bình Ngô đại cáo" để bình quân đại láo là đám quan thầy khốn nạn của chúng:
Ném dân đen trong bể khổ khốn cùng
Vùi dân tộc dưới đáy cùng nhân loại (2)
Dối Trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Động binh, gây oán, bắt giữ người ngay
Tham nhũng, hôn quân, luồn sâu, đục khoét
Tận thu thuế má 21 khoản thu
Bù giấy vào lương, bù rơm vào thóc
Người hiền thì khóc, kẻ ác lại cười
- Thế nào tôi hất hàm hỏi: - Đã thấy chưa, còn muốn nghe sự đại láo của lũ quan thầy các người không?
Không cần để chúng bày tỏ phản ứng, tôi đọc tiếp:
Dân thiếu gỗ, vẫn ban hành lệnh xuất
28 năm rừng bỗng hoá... đất hoang
Tàn phá cả côn trùng thảo mộc
Độc ác hơn bè lũ tay sai
Dân khổ trăm đường chúng ngồi ngất ngưởng
Hút máu dân bòn rút quỹ công
Ra tay xây dựng Ho-tel
Đầu cơ tích đất, tiêu xài tiền đô (3)
- Chị này... cán bộ Mai Thành Sơn góp ý, giọng điệu lạc lõng:- Viết gì cũng phải có chứng cớ chứ, chị chỉ lên mạng xem thông tin một chiều rồi kết luận con cái lãnh đạo đảng có khách sạn trải đủ 3 miền, còn bản thân các lãnh đạo đều có cả tỉ USD gửi ở ngân hàng nước ngoài, như thế không được.
Mặc, tôi không thèm tranh luận, đọc tiếp:
Nơi làng xóm âm thầm héo lụi
Người bỏ đi vãn cả chùa chiền
Vợ trẻ trông bóng chồng đỏ mắt
Bầy con thơ ngơ ngác đói ăn
Mẹ già ốm đâu tiền mua thuốc...
Dừng lại một chút để lấy hơi, vì phổi tôi từ 4 tháng nay có vấn đề, tim đập nhanh nên hơi thở rất ngắn, tôi đọc tiếp, chẳng cần biết chúng có thèm nghe hay không:
Tát cạn nước sông Hồng không rửa được oan khiên
Chặt hết mía Lam Sơn khó ghi tày tội ác
Bao bà mẹ Việt Nam nhận danh hiệu anh hùng
Lại chết thảm nơi thềm nhà lãnh đạo
Chân lý là chồng đơn tố cáo
Hoá hương, vàng mã, tiễn mẹ đi
Thần, người đều căm giận, trời đất chẳng dung tha
Nay lụt lội, mai hạn hán, vỡ đê,
Lúc mất mùa, khi cháy rừng, động đất
Đất xói lở, bạc màu, hoang hoá
Trùm điêu linh lên cuộc sống dân cày
... Có vẻ như chúng đã có ấn tượng trước sự bình "lếu láo" của tôi rồi, tôi quyết định phải ấn chúng... thành tượng luôn:
Ta đây nhớ Ức Trai, nhắc lại
Đã đến ngày không đội trời chung
Thề lãnh đạo khó cùng chung sống
Đau lòng nhức óc kể đã nhiều năm
Nhịn đắng, nuốt cay phải đâu một buổi
Đăm đăm nhiều bận, ngẫm kế dân sinh
Nơi đỉnh núi Cao Bằng Bắc Cạn
Hay đồng bằng... phương thức như nhau
(Ô hô, lãnh đạo đại tài
Hoà Bình, Minh Hải, không ngoài...Việt Nam
Hiện tại, qúa khứ, tương lai
Hoạch định kinh tế lấy tai... làm vần)
Cho nên...
Tôi tiếp tục đọc, không rời mắt khỏi trang sách, cũng không cần biết trước mặt mình, chúng biểu lộ thái độ, tâm trạng, cảm xúc ra sao:
Dân đói khổ, lầm than dốt nát
Đất nước ta thua thiệt đủ điều
Dân thất học, lãnh đạo càng khinh học
Giỏi ăn trên, ngồi trốc, làm càn
Mặc tai tiếng nghìn năm sau còn để
Đáng thương thay cho truyền thống giống nòi
Con cháu rồng tiên không bằng con sâu cái kiến
Lũ kiêu binh thoả sức lộng hành
Bắt người ư? mồm tao là lệnh (3)
Liệu hồn - quy tội chống đảng ngay
Giam, cầm cố hàng năm không xử
Mặc mẹ cha ngơ ngác, hoảng hồn
Có vẻ như hồn của Ức Trai nguyễn Trãi đã bắt đầu lắng vào hồn chúng, nên tôi thản nhiên đọc tiếp:
Bắt trận đầu - sạch sanh kỳ cựu (4)
Bắt trận sau tan tác dân đen (5)
Nhóm xét lại,chống đảng, nhân văn
Bọn "gây rối an ninh" nổi loạn
Cả nhà báo, luật sư, bắt tuốt
Sạch sành sanh cho chúng khỏi ngu ngơ
Thêm một kẻ nữa bỏ đi, những kẻ còn lại trong phòng vẫn cụp tai, nghe ngóng, tôi bình:
Lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hưng phế
Lúc này đây cộng sản mất thiêng
Giải phóng rồi, nghèo đói càng tăng
Đạo đức suy đồi, dân tình kiệt quệ
Tấc đất biên cương đã vào tay Trung Quốc
Nội bộ thù hằn, gây hấn đã lâu
Thế mà
Người dũng cảm như lá mùa thu
Hào kiệt như sao buổi sớm
Đôn đáo, trước sau đành đã thiếu người
Trí đức nhân tâm lại càng thiếu tệ
Thương dân để dạ, chí háo hức chẳng dám vùng lên
Bao năm rồi vẫn nén lòng vì nhát sợ
Tương lai vẫn mù mịt biển khơi
Đếm đi tính lại chỉ vài hạt muối
Giữa biển đông, nhạt thếch kiếp sống còn
- Đấy nhớ tên Bá cắt ngang lời tôi bảo: - Chính chị cũng tự thú nhận là những người như chị chỉ đếm được trên đầu ngón tay vì đi ngược lại xu thế của dân tộc, ngược lại đường lối lãnh đạo của đảng:
- Thôi đi, tôi bảo: Tôi không đi ngược lại xu thế của dân tộc, chỉ đi ngược lại xu thế của đảng cộng sản, đừng đánh đồng đất nước Việt Nam mà tôi yêu quý với cái chính đảng ăn cướp của các người. Hơn nữa, thời điểm tôi viết bài này đã cách đây tròn 4 năm rồi. Và tôi tiếp tục đọc để làm rõ ý tưởng trong bài nhại của mình:
Trần Dũng Tiến, Phạm Quế Dương, Cao Quận
Nguyễn Thanh Xuân, Trần Độ, Trần Khuê
Sĩ Phu, Minh Chính, Thanh Giang
Hồng Sơn, Minh Quốc, Chí Quang, Vũ Bình
Lê Hồng Hà, Trung Thành, Hoàng Tiến
Viễn Trí, Thiện Tâm, Nhân Đạo, Giản, Toàn
Dù trong cảnh "nạn dân" quấy nhiễu
Vẫn bền lòng cứu giúp nhân dân
Giận hung đồ nên viết huyết tâm thư
Chúng ngọ nguậy như đang ngồi trên ghế điện mà cầu dao có thể đóng vào bất cứ lúc nào, sợ chúng bỏ đi, tôi phải bảo:
- Ngồi im, xem tôi tả cảnh ăn cướp của đảng đây này, xem có đúng câu thơ mà nhà thơ Nguyễn Chí thiện viết không: "Đảng thực chất chỉ là đảng cướp".
Khi đang đêm bọn cướp xông vào
Giường tủ lục tung, tịch thu tài liệu
Lại lấy cả máy in, vi tính
Cùng sổ tay ghi chép mọi điều
Rồi dựng vụ, gán tội, hỏi cung
Tự do rứa, ngôn luận là như rứa?
Hớp môi một ngụm nước cho đỡ khô cổ, tôi hướng cái nhìn khinh bỉ về phía chúng, cao giọng đọc tiếp:
Bởi trời đã chọn ta, cần kinh qua khổ luyện
Lòng người sẽ hiểu ra, càng nên cố gắng
Mở mắt cho dân, vạch mặt lũ đớn hèn
Dùng mực thay lời, 64 tỉnh thành, anh em tìm hiểu
Hoà chung trí tuệ, trí thức một dạ đồng tâm
Rút cục: Lấy xu thế để thắng lụi tàn
Lấy kiến thức để thay cho lạc hậu
Trận Thái Bình lòng dân hể hả
Trận Tây Nguyên, ác bá sợ run
Chí khí lại càng hăng
Dân ta càng nhớ kỹ
Bọn lãnh đạo nghe tin mà bở vía
Lũ hôn quân nín thở nổi da gà
Thừa thắng ruổi dài, lòng dân ghi khắc
Phản dân là chết, sóng to, bão lớn tràn bờ
Vụ Thái Bình một vạn đảng viên vĩnh viễn khai trừ
Nhà tù - người nhốt chật căng, dân đen bỏ mạng Bọn tham quan đứa về hưu, đứa nghỉ việc, đứa khai trừ
Bao mặt nạ cùng rơi, cùng rụng
Tai tiếng còn theo tận đáy mồ
- Thôi đi. Tên Bá quát, quay sang cán bộ Mai Thành Sơn bảo: - Cậu yêu cầu chị ta làm việc cho nghiêm túc, nếu không chúng ta bắt buộc phải lập biên bản:
Tôi bảo:
- Đây là tôi nhại hồn của Nguyễn Trãi, thơ của Nguyễn Trãi, tức Ức Trai cơ mà, sao thân trai như các cậu phải ức?
Bỏ qua vẻ mặt vừa bối rối vừa căng thẳng của chúng, tôi đọc tiếp
Tưởng lũ sâu mọt biết điều dừng lại
Ngờ đâu vẫn hung ác để chuốc tai
Cố chấp ý kiến để gỡ tội cho tù
Tham lam quá tả để mưu cầu vật chất
Làm cho chức tước vẻ vang cùng trôi đi mất
Liền cho chủ tịch Nguyễn Văn An cũng phải giải trình*
- Bác An đã nghỉ hưu rồi, chị đừng có nhắc đến nữa. Tên Sơn bày tỏ.
Mặc, tôi tiếp tục dòng chảy vô tận của mình
Ra Quốc hội dặt một quân bậy bạ
Chỉ tiền to, lo lót ghế ngồi
Phạm Thế Duyệt bị khui 15 tội
Trương Tấn Sang cũng thế kém gì
Cũng cướp đất, cũng ăn chia
Nhận tiền hối lộ, bao che tội đồ
Phạm Văn Trà năm nhà, ba vợ
Còn mạnh hơn quan lớn ở trên
Cam tâm bán rẻ nhân quyền
Còn lên đài báo oang oang cãi bừa (6)
Biết khó có thể ngăn cản được tôi lúc "cố cùng liều thân" này, chúng quay đi, tỏ vẻ không nghe, tôi cao giọng bình tiếp như muốn thu hút sự chú ý của chúng:
Ta tố chúng, chúng sun vòi lại
Đứng dậy đi quần chúng, anh em
Tổ kiến lửa sụt toang đê vỡ
Trận gió rung trút sạch lá khô
Bắt Đỗ Mười nộp thân chịu tội
Lê Đức Anh tự trói cúi đầu
Cả bè đảng lũ gian tham
Phải khai cho hết việc làm thối thây
Cửa Nội Bài chật căng nghẹt thở
Máy bay không đủ chỗ chen chân
Gíó mây biến sắc, mất thần
Nhật nguyệt thảm đạm, cờ hồng lắt lay
- Lại còn thế nữa, chị đúng là kẻ đối đầu với cơ quan an ninh thật rồi. Quả là với chị chúng tôi hết thuốc chữa. Trần Khải Thanh Thuỷ ơi là Trần Khải Thanh Thuỷ ơi. Tên Bá kêu to.
- Kệ, tôi bị hút vào chính những dòng mà mình đã viết cách đây tròn 4 năm, ngay sau khi Lê Chí Quang bị bắt.
Lũ hôn quân bị chặn lại trước cửa sân bay, kinh sợ mà vỡ mật
Bọn quan tham bị vạch mặt trước toà, tan tác xéo lên nhau chạy để thoát thân
Bọn theo đóm,lũ ăn tàn, vẫy đuôi cầu sống
Quân cường hào, ác bá, được tha rồi còn phách lạc hồn kinh
Kẻ đục nước, béo cò, lò dò về đến nhà còn tim đập, chân run -
- Không có chuyện ấy đâu, tên Bá lấy lại quyền uy, khẳng định: - Chúng tôi là những người bảo vệ chế độ, nên dù chế độ này có thế nào đi nữa, chúng tôi cũng quyết bảo vệ đến cùng:
"Được" - tôi nghĩ: "Chúng bảo vệ chế độ đến cùng, còn tôi trong lúc này cũng bảo vệ quan điểm của mình đến cùng, để tiếp tục bình các quan đại láo trong triều đình bọn chúng
Đất nước giờ đang đổ vỡ
Giang Sơn giờ đang bế tắc
Càn khôn đã bĩ rồi đến ngày phải thái
Nhật nguyệt dù lu mờ sẽ có lúc phải trong
Để mở nền thái bình muôn thưở
Để rửa nỗi sỉ nhục nghìn năm
Một tương lai sáng lạn đang chờ
Nếu 64 tỉnh thành cùng đua nhau dẫm chết
Nấm mồ kia - chủ nghĩa hư vô
Thẳng tiến tới chân trời Tư Bản
Tên Bá đã tức giận bỏ đi từ lúc nào, cậu Sơn chán ngán cũng đứng lên để mặc tôi với bài "hịch" của mình. Tôi đọc nốt hai câu cuối khi bước chân Sơn còn chưa kịp bước qua ngưỡng cửa:
Chúng chỉ là những xác thây thối rữa.
Nào đứng lên đánh gục chúng đi...
Còn lại một mình trong phòng, nhìn lên đồng hồ đã là 11 giờ kém 15: "Nhanh thật" - tôi nghĩ: - Chỉ còn 45 phút nữa là mình được buông tha, lên mạng nói chuyện với bà con qua sự giới thiệu của anh Nguyễn Nam Phong, như luật sư Nguyễn Văn Đài thông báo. Cửa sịch mở, cán bộ Mai Thành Sơn bước vào, tôi hỏi:
- Thế nào, cậu Bá đâu? Có dám bảo tôi nhai lại hoặc đạo trích nữa không, hồn Nguyễn Trãi, mà da thịt tôi đấy. Từ 600 năm trước và 600 năm sau, cũng vẫn trên mảnh đất này, qua cách thể hiện của tôi, hồn Nguyễn Trãi vẫn lắng cùng sông núi, lắng trong hồn của 85 triệu đồng bào Việt Nam nhé.
Như không nghe câu hỏi của tôi, cán bộ Sơn sắp xếp lại giấy tờ trên bàn rồi bảo:
- Thôi hôm nay tạm nghỉ, chiều làm tiếp, chiều nay chị cố gắng lên sớm để còn làm nhớ, nhiều việc lắm.
Tôi nhìn biên bản ghi lời khai trên tay Sơn, và bật cười vì nó chỉ được chưa đầy một gang tay. Nghĩa là vì khích bác tôi không giỏi giang, không có tính sáng tạo, chỉ dựa hơi người khác mới thai nghén ra tác phẩm cho mình, họ đã bị tôi phản thùng và cướp hết thời gian. Bây giờ có làm việc nữa cũng không kết quả, nên đành phải để đến chiều cho cảm xúc dịu đi, không khí lắng lại. Nếu không, cứ động vào văn chương, chữ nghĩa, là tôi - như con nhím xù lông thành một quả cầu gai- vừa lăn tròn, vừa bắn thẳng những chiếc lông cứng nhọn vào người họ, khiến họ không kịp mở mắt, trở tay. Rất nhiều kẻ trong số họ bị những mũi tên nhím của tôi găm vào tận óc, còn bày tỏ thái độ e ngại, sợ sệt, không muốn làm việc với tôi. Đơn giản vì từ 4 năm trước qua hai lần bị bắt (tháng 10-2002 và tháng 4-2006) họ đã biết lưỡi tôi mọc đầy gai, còn thơ mọc răng nanh, nên cả hàm răng trắng ởn nhọn hoắt cùng dùi cui, còng số 8 của cả bè lũ đánh thuê chẳng làm tôi sợ. Có lúc họ bộc lộ sự chán ngán với tôi chẳng khác gì với nhà văn Dương Thu Hương, vì lên làm việc thì ít mà cãi cọ thì nhiều.
Hơn nữa thời điểm bắt Dương Thu Hương họ còn doạ dẫm nghiến chị thành tương ớt trong lọ, còn thời của tôi, họ mà nghiến, hẳn cái thứ tương ớt là tôi sẽ làm họ chết sặc vì cay, vì đắng, vì mùi vị tương ớt không những xộc vào tận cổ họng của các lãnh đạo đảng, mà còn khuếch tán trong không trung, lan toả tới tất cả các nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. Thay vì lạc quan như thời của chị Hương (được quan thầy và chính đảng khuyến khích, bảo vệ) họ chỉ có nước lạc... vào quan tài của chính họ, do 85 triệu người dân cả trong và ngoài nước đem chôn.
Ung dung tôi đạp xe ra về, bóng tôi đổ dài xuống lòng đường thấp thoáng bóng cây xanh, tạo thành những vệt loang lổ trên mặt đất, những bóng nắng như nụ cười sắc cạnh, như mảnh vụn thuỷ tinh cứa vào tim tôi buốt nhói: Bao giờ, bao giờ 82 triệu dân nước Nam quê hương tôi mới được làm người đây? Phải chờ đến tận đầu năm 2008, khi con quỷ Lê Đức Anh xuống vạc dầu, chịu sự trừng phạt của Diêm Vương, và gã người Tày từ chức thì lâu qúa, trong khi cuộc dạo chơi trên cõi thế của tôi đã đi hết 4/5 chặng đường rồi (4 cánh tàn, một cánh sắp sửa rơi).
Mải nghĩ tôi không biết mình đã kịp về "hang đá" từ lúc nào.
Đức Giang 3-10-2006
TKTT
(VNN)
Trong phòng hỏi cung, phía ngoài là một chiếc xe tù kềnh càng chắn ngay lối cửa ra vào, tên Bá (cán bộ an ninh trực thuộc bộ công an) cao giọng mỉa mai đầy đắc ý:
- Chị cứ tưởng chị văn hay chữ tốt lắm, hoá ra chị toàn nhại thơ của người khác. Tại sao chị không tự sáng tác mà cứ phải lệ thuộc vào người khác như thế, lại còn dám viết bài phê phán bác là đạo chích thơ văn của người khác nữa chứ...
- Tất nhiên, tôi điềm nhiên trả lời: - Đạo chích là ăn cắp, còn nhại, lại là sự sáng tạo và hoàn toàn được phép.
- Giời ạ, hắn bĩu môi, đôi mắt lươn đầy lòng trắng: - Chị nói thế mà cũng nói được. Nhại còn bằng 4 ăn cắp ấy chứ. Nếu người ta có ăn cắp thật thì cũng chỉ ăn cắp một đoạn, một câu nào đó thôi. Còn chị nhại cả bài của tác giả. Nghĩa là chị không chỉ đạo trích mà còn là đại đạo trích... chị hiểu không?
- Im đi, tôi nóng gáy quát: -Bình thường các người giả ngô giả ngọng, giả câm giả điếc tôi không thèm chấp, chỉ đọc thơ Trần Đăng Khoa cho các người nghe*, huống hồ bây giờ các người câm điếc thực sự.
Bỏ qua ý mỉa mai trong câu trả lời của tôi, tên Bá tiếp tục mở miệng như mở máy:
- Đây này, gã dúi vào tận tay tôi tập sách dày, khẳng định. - Cả tập "Hồ Chí Minh nhân vật trăm mặt nghìn tên" của chị viết riêng về đề tài bác, chiếm tới 1/3 là thơ nhại. Thử hỏi chị giỏi giang gì? Một đứa trẻ con cũng nhại được như chị.
"Công an đúng là một lũ chó săn thật" - tôi thầm nghĩ- "chỉ được đào tạo huấn luyện theo 7 bước cơ bản về nghiệp vụ, để rình mò, cắn người theo lệnh chủ chứ có hiểu biết gì về đạo lý, nhân cách đâu. Nhất là trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật cứ ù ù, cạc cạc như vịt nghe sấm, như dã tràng nghe tôn giáo bể. Đã thế... tôi quyết định đập chết lũ chó... ngoan bác Hồ này, đập một đòn chết cả đôi luôn, cả cha lẫn lũ cháu con - những kẻ đang ngồi giỏng tai nghe ngóng trước mặt tôi đây, để hễ tôi sơ suất là nhâu nhâu vào cắn:
- "Nhai lại của mình thì chóng chán, còn nhai lại của người người khác thì mất vệ sinh",biết không.Từ ngày đầu tiên cầm bút, tôi đã học được quy tắc này nên không bao giờ thèm nhai lại của mình hay đạo trích của người khác. Tôi chỉ nhại và trích dẫn trên cơ sở được phép.
- Thôi đi, hắn bảo: - Chị đừng ảo tưởng, đừng nguỵ biện hay múa rìu qua mắt thợ. Phục vụ trong ngành an ninh lâu rồi, chúng tôi biết rất rõ: Hơn 1 vạn nhà văn, nhà báo Việt Nam, không ai lại thể hiện sự nhai lại như chị cả.
Điên tiết, tôi nhấn mạnh:
- Tôi đã nói rõ rồi, chỉ có lão cha già của các người là thích nhai lại thôi, những thứ mà nhân loại mửa ra từ mấy chục năm, thậm chí 300 năm, thì lão với tư tưởng chó loà, vẫn cứ thích nhai lại, bắt dân tộc phải nhai theo, đó là chủ nghĩa Mác Lê, là tà thuyết cộng sản, hay đơn giản nhất là câu nói hủ lậu của Khổng Tử từ thế kỷ 17: Chúng ta không sợ ít, không sợ thiếu, chỉ sợ không công bằng...sự công bằng đó chỉ áp dụng cho riêng lũ khốn các người thôi, cứ chăng biển hiệu xã hội chủ nghĩa và cờ đỏ sao vàng ra rồi lấy của công làm của riêng là công bằng nhất...
- Thôi đi, hắn không nao núng, quyết dồn tôi vào thế bí: -Chị đừng lạc đề nữa, rõ ràng nói có sách, mách có chứng rành rành ra đây còn gì. Nếu giỏi, chị đã không phải mở ngoặc đề sau mỗi bài viết là nhại theo bài ấy bài nọ của tác giả nọ, tác giả kia, giỏi thì cứ viết theo đúng ý tưởng của mình ấy.
Tôi phẩy tay cho sách rơi xuống bàn, bảo:
- Giai điệu, cấu tứ là của người ta, nhưng lời là của tôi, rõ chưa? Không biết thế nào là "hồn Trương Ba, da Hàng Thịt", là làm sống lại một bài thơ cũ trên cơ sở lời sáng tác mới à?
Nở nụ cười ngô nghê trên đôi môi "thị nở" Bá bày tỏ lòng hoài nghi:
- Dù sao, người tự cho mình là nhà văn, trong quá trình sáng tác không nên lệ thuộc vào bất cứ điều gì, chẳng qua chị không đủ tài, đủ vốn sống để thể hiện sự sáng tạo nên mới phải dựa vào người khác như thế.
Đã phải mượn châm ngôn thế giới ra để nói về sự khác biệt căn bản giữa hình thức nhại và sự "nhai lại", chúng vẫn không hiểu gì, thì có quỳ, có lạy, có giảng giải rách mép ra chúng vẫn không hiểu. Thôi, đành phải trả sự thật về cho sự thật, lấy những dẫn chứng thật để chứng minh vậy.
Nghĩ sao làm vậy, tôi cầm tập bản thảo "mở mắt và nhỏ lệ" của mình, lật giở trang cuối, có bài "Bình... quân đại láo" bảo:
- Được, tôi sẽ cho các người biết, tác dụng của sự nhại như thế nào, xem tôi có sáng tạo không? Có làm sống lại cả một bài thơ mới trên nền cảm xúc cũ không? Có thành công không? Có hay hơn khi tôi chỉ sáng tác đơn thuần, không có giai điệu, nguồn gốc không?
Và tôi ung dung đọc
Như: Đảng Cộng Sản ta từ trước
Vốn sinh tật nói láo đã quen
Tài sản, sông núi đã chia
Hè phố, mặt đường cũng chiếm
Trải từ Lê, Đỗ, Phan, Nông...mấy đời hại nước
Cùng Thọ, Kiệt, Duyệt, Anh...tàn phá thẳng tay
Tuy nhiều ít có lúc khác nhau
Mà tàn bạo thằng nào cũng rứa
Chúng há hốc miệng nghe nhưng vẫn chưa tin, tôi tiếp tục bình:
Nền dân chủ đã trở thành dân chửi
Chủ nghĩa nở ra từ họng súng vô hình
Trại hoả lò nhốt tướng Kim Giang
Thềm đại hội chết tươi phó Quốc (1)
Chân lý bặt tăm, nhức nhối, hãi hùng
Triều đình, chính trị bùng nhùng
Để đến nỗi lòng dân oán thán
Năm Cam thành bố già đảng ta
Thuyết "chăn vua" đẻ ra Tần Thuỷ Hoàng giấu mặt
Quyền lực đỏ đã hoá quyền lực đen
Ra sức tác oai, bắn, giết lộng hành
Vài kẻ cười cợt bỏ đi, cho cái sự bình lếu láo của tôi là không mấy quan trọng. Mặc, tôi tiếp tục mượn giọng của "Bình Ngô đại cáo" để bình quân đại láo là đám quan thầy khốn nạn của chúng:
Ném dân đen trong bể khổ khốn cùng
Vùi dân tộc dưới đáy cùng nhân loại (2)
Dối Trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế
Động binh, gây oán, bắt giữ người ngay
Tham nhũng, hôn quân, luồn sâu, đục khoét
Tận thu thuế má 21 khoản thu
Bù giấy vào lương, bù rơm vào thóc
Người hiền thì khóc, kẻ ác lại cười
- Thế nào tôi hất hàm hỏi: - Đã thấy chưa, còn muốn nghe sự đại láo của lũ quan thầy các người không?
Không cần để chúng bày tỏ phản ứng, tôi đọc tiếp:
Dân thiếu gỗ, vẫn ban hành lệnh xuất
28 năm rừng bỗng hoá... đất hoang
Tàn phá cả côn trùng thảo mộc
Độc ác hơn bè lũ tay sai
Dân khổ trăm đường chúng ngồi ngất ngưởng
Hút máu dân bòn rút quỹ công
Ra tay xây dựng Ho-tel
Đầu cơ tích đất, tiêu xài tiền đô (3)
- Chị này... cán bộ Mai Thành Sơn góp ý, giọng điệu lạc lõng:- Viết gì cũng phải có chứng cớ chứ, chị chỉ lên mạng xem thông tin một chiều rồi kết luận con cái lãnh đạo đảng có khách sạn trải đủ 3 miền, còn bản thân các lãnh đạo đều có cả tỉ USD gửi ở ngân hàng nước ngoài, như thế không được.
Mặc, tôi không thèm tranh luận, đọc tiếp:
Nơi làng xóm âm thầm héo lụi
Người bỏ đi vãn cả chùa chiền
Vợ trẻ trông bóng chồng đỏ mắt
Bầy con thơ ngơ ngác đói ăn
Mẹ già ốm đâu tiền mua thuốc...
Dừng lại một chút để lấy hơi, vì phổi tôi từ 4 tháng nay có vấn đề, tim đập nhanh nên hơi thở rất ngắn, tôi đọc tiếp, chẳng cần biết chúng có thèm nghe hay không:
Tát cạn nước sông Hồng không rửa được oan khiên
Chặt hết mía Lam Sơn khó ghi tày tội ác
Bao bà mẹ Việt Nam nhận danh hiệu anh hùng
Lại chết thảm nơi thềm nhà lãnh đạo
Chân lý là chồng đơn tố cáo
Hoá hương, vàng mã, tiễn mẹ đi
Thần, người đều căm giận, trời đất chẳng dung tha
Nay lụt lội, mai hạn hán, vỡ đê,
Lúc mất mùa, khi cháy rừng, động đất
Đất xói lở, bạc màu, hoang hoá
Trùm điêu linh lên cuộc sống dân cày
... Có vẻ như chúng đã có ấn tượng trước sự bình "lếu láo" của tôi rồi, tôi quyết định phải ấn chúng... thành tượng luôn:
Ta đây nhớ Ức Trai, nhắc lại
Đã đến ngày không đội trời chung
Thề lãnh đạo khó cùng chung sống
Đau lòng nhức óc kể đã nhiều năm
Nhịn đắng, nuốt cay phải đâu một buổi
Đăm đăm nhiều bận, ngẫm kế dân sinh
Nơi đỉnh núi Cao Bằng Bắc Cạn
Hay đồng bằng... phương thức như nhau
(Ô hô, lãnh đạo đại tài
Hoà Bình, Minh Hải, không ngoài...Việt Nam
Hiện tại, qúa khứ, tương lai
Hoạch định kinh tế lấy tai... làm vần)
Cho nên...
Tôi tiếp tục đọc, không rời mắt khỏi trang sách, cũng không cần biết trước mặt mình, chúng biểu lộ thái độ, tâm trạng, cảm xúc ra sao:
Dân đói khổ, lầm than dốt nát
Đất nước ta thua thiệt đủ điều
Dân thất học, lãnh đạo càng khinh học
Giỏi ăn trên, ngồi trốc, làm càn
Mặc tai tiếng nghìn năm sau còn để
Đáng thương thay cho truyền thống giống nòi
Con cháu rồng tiên không bằng con sâu cái kiến
Lũ kiêu binh thoả sức lộng hành
Bắt người ư? mồm tao là lệnh (3)
Liệu hồn - quy tội chống đảng ngay
Giam, cầm cố hàng năm không xử
Mặc mẹ cha ngơ ngác, hoảng hồn
Có vẻ như hồn của Ức Trai nguyễn Trãi đã bắt đầu lắng vào hồn chúng, nên tôi thản nhiên đọc tiếp:
Bắt trận đầu - sạch sanh kỳ cựu (4)
Bắt trận sau tan tác dân đen (5)
Nhóm xét lại,chống đảng, nhân văn
Bọn "gây rối an ninh" nổi loạn
Cả nhà báo, luật sư, bắt tuốt
Sạch sành sanh cho chúng khỏi ngu ngơ
Thêm một kẻ nữa bỏ đi, những kẻ còn lại trong phòng vẫn cụp tai, nghe ngóng, tôi bình:
Lấy xưa nghiệm nay, xét suy mọi cơ hưng phế
Lúc này đây cộng sản mất thiêng
Giải phóng rồi, nghèo đói càng tăng
Đạo đức suy đồi, dân tình kiệt quệ
Tấc đất biên cương đã vào tay Trung Quốc
Nội bộ thù hằn, gây hấn đã lâu
Thế mà
Người dũng cảm như lá mùa thu
Hào kiệt như sao buổi sớm
Đôn đáo, trước sau đành đã thiếu người
Trí đức nhân tâm lại càng thiếu tệ
Thương dân để dạ, chí háo hức chẳng dám vùng lên
Bao năm rồi vẫn nén lòng vì nhát sợ
Tương lai vẫn mù mịt biển khơi
Đếm đi tính lại chỉ vài hạt muối
Giữa biển đông, nhạt thếch kiếp sống còn
- Đấy nhớ tên Bá cắt ngang lời tôi bảo: - Chính chị cũng tự thú nhận là những người như chị chỉ đếm được trên đầu ngón tay vì đi ngược lại xu thế của dân tộc, ngược lại đường lối lãnh đạo của đảng:
- Thôi đi, tôi bảo: Tôi không đi ngược lại xu thế của dân tộc, chỉ đi ngược lại xu thế của đảng cộng sản, đừng đánh đồng đất nước Việt Nam mà tôi yêu quý với cái chính đảng ăn cướp của các người. Hơn nữa, thời điểm tôi viết bài này đã cách đây tròn 4 năm rồi. Và tôi tiếp tục đọc để làm rõ ý tưởng trong bài nhại của mình:
Trần Dũng Tiến, Phạm Quế Dương, Cao Quận
Nguyễn Thanh Xuân, Trần Độ, Trần Khuê
Sĩ Phu, Minh Chính, Thanh Giang
Hồng Sơn, Minh Quốc, Chí Quang, Vũ Bình
Lê Hồng Hà, Trung Thành, Hoàng Tiến
Viễn Trí, Thiện Tâm, Nhân Đạo, Giản, Toàn
Dù trong cảnh "nạn dân" quấy nhiễu
Vẫn bền lòng cứu giúp nhân dân
Giận hung đồ nên viết huyết tâm thư
Chúng ngọ nguậy như đang ngồi trên ghế điện mà cầu dao có thể đóng vào bất cứ lúc nào, sợ chúng bỏ đi, tôi phải bảo:
- Ngồi im, xem tôi tả cảnh ăn cướp của đảng đây này, xem có đúng câu thơ mà nhà thơ Nguyễn Chí thiện viết không: "Đảng thực chất chỉ là đảng cướp".
Khi đang đêm bọn cướp xông vào
Giường tủ lục tung, tịch thu tài liệu
Lại lấy cả máy in, vi tính
Cùng sổ tay ghi chép mọi điều
Rồi dựng vụ, gán tội, hỏi cung
Tự do rứa, ngôn luận là như rứa?
Hớp môi một ngụm nước cho đỡ khô cổ, tôi hướng cái nhìn khinh bỉ về phía chúng, cao giọng đọc tiếp:
Bởi trời đã chọn ta, cần kinh qua khổ luyện
Lòng người sẽ hiểu ra, càng nên cố gắng
Mở mắt cho dân, vạch mặt lũ đớn hèn
Dùng mực thay lời, 64 tỉnh thành, anh em tìm hiểu
Hoà chung trí tuệ, trí thức một dạ đồng tâm
Rút cục: Lấy xu thế để thắng lụi tàn
Lấy kiến thức để thay cho lạc hậu
Trận Thái Bình lòng dân hể hả
Trận Tây Nguyên, ác bá sợ run
Chí khí lại càng hăng
Dân ta càng nhớ kỹ
Bọn lãnh đạo nghe tin mà bở vía
Lũ hôn quân nín thở nổi da gà
Thừa thắng ruổi dài, lòng dân ghi khắc
Phản dân là chết, sóng to, bão lớn tràn bờ
Vụ Thái Bình một vạn đảng viên vĩnh viễn khai trừ
Nhà tù - người nhốt chật căng, dân đen bỏ mạng Bọn tham quan đứa về hưu, đứa nghỉ việc, đứa khai trừ
Bao mặt nạ cùng rơi, cùng rụng
Tai tiếng còn theo tận đáy mồ
- Thôi đi. Tên Bá quát, quay sang cán bộ Mai Thành Sơn bảo: - Cậu yêu cầu chị ta làm việc cho nghiêm túc, nếu không chúng ta bắt buộc phải lập biên bản:
Tôi bảo:
- Đây là tôi nhại hồn của Nguyễn Trãi, thơ của Nguyễn Trãi, tức Ức Trai cơ mà, sao thân trai như các cậu phải ức?
Bỏ qua vẻ mặt vừa bối rối vừa căng thẳng của chúng, tôi đọc tiếp
Tưởng lũ sâu mọt biết điều dừng lại
Ngờ đâu vẫn hung ác để chuốc tai
Cố chấp ý kiến để gỡ tội cho tù
Tham lam quá tả để mưu cầu vật chất
Làm cho chức tước vẻ vang cùng trôi đi mất
Liền cho chủ tịch Nguyễn Văn An cũng phải giải trình*
- Bác An đã nghỉ hưu rồi, chị đừng có nhắc đến nữa. Tên Sơn bày tỏ.
Mặc, tôi tiếp tục dòng chảy vô tận của mình
Ra Quốc hội dặt một quân bậy bạ
Chỉ tiền to, lo lót ghế ngồi
Phạm Thế Duyệt bị khui 15 tội
Trương Tấn Sang cũng thế kém gì
Cũng cướp đất, cũng ăn chia
Nhận tiền hối lộ, bao che tội đồ
Phạm Văn Trà năm nhà, ba vợ
Còn mạnh hơn quan lớn ở trên
Cam tâm bán rẻ nhân quyền
Còn lên đài báo oang oang cãi bừa (6)
Biết khó có thể ngăn cản được tôi lúc "cố cùng liều thân" này, chúng quay đi, tỏ vẻ không nghe, tôi cao giọng bình tiếp như muốn thu hút sự chú ý của chúng:
Ta tố chúng, chúng sun vòi lại
Đứng dậy đi quần chúng, anh em
Tổ kiến lửa sụt toang đê vỡ
Trận gió rung trút sạch lá khô
Bắt Đỗ Mười nộp thân chịu tội
Lê Đức Anh tự trói cúi đầu
Cả bè đảng lũ gian tham
Phải khai cho hết việc làm thối thây
Cửa Nội Bài chật căng nghẹt thở
Máy bay không đủ chỗ chen chân
Gíó mây biến sắc, mất thần
Nhật nguyệt thảm đạm, cờ hồng lắt lay
- Lại còn thế nữa, chị đúng là kẻ đối đầu với cơ quan an ninh thật rồi. Quả là với chị chúng tôi hết thuốc chữa. Trần Khải Thanh Thuỷ ơi là Trần Khải Thanh Thuỷ ơi. Tên Bá kêu to.
- Kệ, tôi bị hút vào chính những dòng mà mình đã viết cách đây tròn 4 năm, ngay sau khi Lê Chí Quang bị bắt.
Lũ hôn quân bị chặn lại trước cửa sân bay, kinh sợ mà vỡ mật
Bọn quan tham bị vạch mặt trước toà, tan tác xéo lên nhau chạy để thoát thân
Bọn theo đóm,lũ ăn tàn, vẫy đuôi cầu sống
Quân cường hào, ác bá, được tha rồi còn phách lạc hồn kinh
Kẻ đục nước, béo cò, lò dò về đến nhà còn tim đập, chân run -
- Không có chuyện ấy đâu, tên Bá lấy lại quyền uy, khẳng định: - Chúng tôi là những người bảo vệ chế độ, nên dù chế độ này có thế nào đi nữa, chúng tôi cũng quyết bảo vệ đến cùng:
"Được" - tôi nghĩ: "Chúng bảo vệ chế độ đến cùng, còn tôi trong lúc này cũng bảo vệ quan điểm của mình đến cùng, để tiếp tục bình các quan đại láo trong triều đình bọn chúng
Đất nước giờ đang đổ vỡ
Giang Sơn giờ đang bế tắc
Càn khôn đã bĩ rồi đến ngày phải thái
Nhật nguyệt dù lu mờ sẽ có lúc phải trong
Để mở nền thái bình muôn thưở
Để rửa nỗi sỉ nhục nghìn năm
Một tương lai sáng lạn đang chờ
Nếu 64 tỉnh thành cùng đua nhau dẫm chết
Nấm mồ kia - chủ nghĩa hư vô
Thẳng tiến tới chân trời Tư Bản
Tên Bá đã tức giận bỏ đi từ lúc nào, cậu Sơn chán ngán cũng đứng lên để mặc tôi với bài "hịch" của mình. Tôi đọc nốt hai câu cuối khi bước chân Sơn còn chưa kịp bước qua ngưỡng cửa:
Chúng chỉ là những xác thây thối rữa.
Nào đứng lên đánh gục chúng đi...
Còn lại một mình trong phòng, nhìn lên đồng hồ đã là 11 giờ kém 15: "Nhanh thật" - tôi nghĩ: - Chỉ còn 45 phút nữa là mình được buông tha, lên mạng nói chuyện với bà con qua sự giới thiệu của anh Nguyễn Nam Phong, như luật sư Nguyễn Văn Đài thông báo. Cửa sịch mở, cán bộ Mai Thành Sơn bước vào, tôi hỏi:
- Thế nào, cậu Bá đâu? Có dám bảo tôi nhai lại hoặc đạo trích nữa không, hồn Nguyễn Trãi, mà da thịt tôi đấy. Từ 600 năm trước và 600 năm sau, cũng vẫn trên mảnh đất này, qua cách thể hiện của tôi, hồn Nguyễn Trãi vẫn lắng cùng sông núi, lắng trong hồn của 85 triệu đồng bào Việt Nam nhé.
Như không nghe câu hỏi của tôi, cán bộ Sơn sắp xếp lại giấy tờ trên bàn rồi bảo:
- Thôi hôm nay tạm nghỉ, chiều làm tiếp, chiều nay chị cố gắng lên sớm để còn làm nhớ, nhiều việc lắm.
Tôi nhìn biên bản ghi lời khai trên tay Sơn, và bật cười vì nó chỉ được chưa đầy một gang tay. Nghĩa là vì khích bác tôi không giỏi giang, không có tính sáng tạo, chỉ dựa hơi người khác mới thai nghén ra tác phẩm cho mình, họ đã bị tôi phản thùng và cướp hết thời gian. Bây giờ có làm việc nữa cũng không kết quả, nên đành phải để đến chiều cho cảm xúc dịu đi, không khí lắng lại. Nếu không, cứ động vào văn chương, chữ nghĩa, là tôi - như con nhím xù lông thành một quả cầu gai- vừa lăn tròn, vừa bắn thẳng những chiếc lông cứng nhọn vào người họ, khiến họ không kịp mở mắt, trở tay. Rất nhiều kẻ trong số họ bị những mũi tên nhím của tôi găm vào tận óc, còn bày tỏ thái độ e ngại, sợ sệt, không muốn làm việc với tôi. Đơn giản vì từ 4 năm trước qua hai lần bị bắt (tháng 10-2002 và tháng 4-2006) họ đã biết lưỡi tôi mọc đầy gai, còn thơ mọc răng nanh, nên cả hàm răng trắng ởn nhọn hoắt cùng dùi cui, còng số 8 của cả bè lũ đánh thuê chẳng làm tôi sợ. Có lúc họ bộc lộ sự chán ngán với tôi chẳng khác gì với nhà văn Dương Thu Hương, vì lên làm việc thì ít mà cãi cọ thì nhiều.
Hơn nữa thời điểm bắt Dương Thu Hương họ còn doạ dẫm nghiến chị thành tương ớt trong lọ, còn thời của tôi, họ mà nghiến, hẳn cái thứ tương ớt là tôi sẽ làm họ chết sặc vì cay, vì đắng, vì mùi vị tương ớt không những xộc vào tận cổ họng của các lãnh đạo đảng, mà còn khuếch tán trong không trung, lan toả tới tất cả các nơi có cộng đồng người Việt sinh sống. Thay vì lạc quan như thời của chị Hương (được quan thầy và chính đảng khuyến khích, bảo vệ) họ chỉ có nước lạc... vào quan tài của chính họ, do 85 triệu người dân cả trong và ngoài nước đem chôn.
Ung dung tôi đạp xe ra về, bóng tôi đổ dài xuống lòng đường thấp thoáng bóng cây xanh, tạo thành những vệt loang lổ trên mặt đất, những bóng nắng như nụ cười sắc cạnh, như mảnh vụn thuỷ tinh cứa vào tim tôi buốt nhói: Bao giờ, bao giờ 82 triệu dân nước Nam quê hương tôi mới được làm người đây? Phải chờ đến tận đầu năm 2008, khi con quỷ Lê Đức Anh xuống vạc dầu, chịu sự trừng phạt của Diêm Vương, và gã người Tày từ chức thì lâu qúa, trong khi cuộc dạo chơi trên cõi thế của tôi đã đi hết 4/5 chặng đường rồi (4 cánh tàn, một cánh sắp sửa rơi).
Mải nghĩ tôi không biết mình đã kịp về "hang đá" từ lúc nào.
Đức Giang 3-10-2006
TKTT
Tôi chỉ thích thoáng hài...
Trần Khải Thanh Thuỷ
(VNN)
(Tổng hợp lại từ các cuộc trả lời phỏng vấn đài RFA, Paltalk, Vietnam Exodus, Đài truyền hình Hải Ngoại thông qua các phóng viên Việt Hùng, Tường Thắng, Nguyễn Nam Phong....)
Phóng viên: - Lý do chị bị bắt
Trần Khải Thanh Thuỷ: - Họ sợ tôi.
- Sợ một người phụ nữ như chị sao?
- Vâng chính xác hơn là họ sợ sự thực, những gì có lợi cho dân chủ thì bất lợi với độc tài, bản chất của đảng cộng sản Việt Nam là độc tài tham lam, dối trá. Với bản chất thối nát như vậy, họ rất sợ bị vạch trần, mà tôi chỉ thích dùng ngòi bút của mình để vạch trần bộ mặt thật khốn nạn, xấu xa của đảng. Trong cơn sợ hãi họ đã tung đòn đánh trước, như đã từng đánh tất cả những nhà dân chủ, bất đồng chính kiến khác ở Việt Nam.
- Thế khi bị bắt chị có sợ họ không?
- Cho đến lúc này thì không, bởi ít nhất tôi đã có 5 năm kinh nghiệm đối phó với các trò đểu cáng, độc ác của họ. Bài học dân chủ mà tôi tự rút ra cho mình là: - Không nên sợ một cái xác đã hấp hối, chỉ nên đề phòng những kẻ cuồng tín, qúa khích mà thôi. Như cách mà bác Hoàng Minh Chính, Hà sĩ Phu đã gặp vậy.
- Làm sao chị dám kết luận là đảng đang hấp hối, thực tế chúng nó vẫn đang mạnh lắm mà?
- Là nhà văn tôi luôn có những dự liệu tiên đoán cho mình, theo tôi lịch sử Việt Nam đang có những bước chuyển gấp, thời gian không còn ngừng trong tê tái như 31 năm ròng rên xiết lầm than, dưới ách quân cộng sản tham nhũng mị dân nữa mà đang như người bị bập vào còng số 8 lôi đi. Kể từ đầu năm 2005, khi cơn sấm đầu tiên giữa ngày mồng 1 tết, đã báo hiệu một sự chuyển động lớn trong lòng người dân Việt Nam, hàng trăm các cuộc biểu tình biểu tình lớn, nhỏ (dù còn mang tính bộc phát) của công nhân, và dân oan Việt Nam (Trước cửa nhà lãnh đạo, vườn hoa Mai Xuân Thưởng, văn phòng chính phủ, văn phòng quốc hội v.v), điều này kể từ trước thời 2004, chưa từng xảy ra.
- Theo chị đến khi nào thì đảng sẽ chấm dứt chế độ độc tài này?
- Theo xét đoán chủ quan của tôi thì chậm nhất đến đầu 2008, tôi và 85 triệu đồng bào cả trong và ngoài nước sẽ ngồi cùng với nhau để nâng cốc chúc cho đảng cộng sản mồ yên mả đẹp.
- Chị có lạc quan tếu không?
- Tất nhiên là tôi phải lạc quan rồi, không lạc quan sao tôi dám đi trên con đường chông gai này? Sao tôi có thể quăng thẳng vào mặt chúng nó những lời như dao chém đá khi chúng cố tình hù doạ sẽ kết án tôi ít nhất mười năm tù. Còn tếu thì chưa phải lúc. Mặc dù tính tôi vốn tếu táo, hài hước.
- Thế hôm ấy chị trả lời chúng như thế nào? Lặp lại câu trả lời của Võ thị Thắng à?
- Vâng. Lịch sử đang sửa đổi lại những sai lầm của mình, nếu khi ấy Võ thị Thắng mong cho chế độ Việt Nam cộng hoà đổ, thì bây giờ sau hơn 30 năm, tôi mong chế độ cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đổ, nên tôi nói thẳng: Xin lỗi các người đi, đố các người động đến lông chân tôi đấy. Làm sao các người tồn tại nổi 2 năm nữa mà đòi kết án tôi 10 năm chứ?
- Chúng trả lời sao?
- Chúng đánh trống lảng bằng cách bỡn cợt, vì biết tính tôi vốn hay hài: "Nhưng chân chị làm gì có lông? Lông chị mọc ở chỗ khác chứ. Đâu phải ở chân, đúng không?
- Trở lại lời tiên đoán của chị, căn cứ vào đâu chị bảo chậm nhất năm 2008 đảng sẽ chết?
- Căn cứ vào thực tế đang diễn ra, tôi khẳng định chế độ độc tài hiện tại chỉ tồn tại trên cơ sở lính mú, nghĩa là chỉ tồn tại nhờ hai lực lượng là bộ đội và công an thôi, còn nhân dân cũng bắt đầu nhận ra bộ mặt thật bẩn tưởi thông qua những lần bầu cử, đại hội, hay các cuộc càn quét lấn dân, cướp đất, cướp nhà rồi. Riêng với quân đội thì không ngại, vì tuy được hưởng sự đặc quyền, đặc lợi nhưng phần đông trong số họ đều xác định được mình từ nhân dân mà ra nên trả lời thẳng: Chúng tôi không quay súng vào đồng bào mình. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ biên giơí của tổ quốc, không cho kẻ thù xâm lược, chứ không phải đàn áp, chém giết bà con. Còn công an hiện tại vẫn ngu trung lắm, vì từ khi ngồi trên ghế trường an ninh đã phải tuyên thệ rồi, nên chỉ biết có đảng của mình, không cần biết nguồn gốc số lương hàng tháng từ đâu mà có. Tuy nhiên những kẻ làm ác rất sợ luật trời, rất nhiều người trong số họ sinh con tật nguyện, nào câm, nào điếc, nào dị hình, dị dạng nên 30% trong số công an cũng biết dừng bước trước tội ác, không ra mặt chống đối chính quyền, nhưng cũng không dám mạnh tay khủng bố đồng bào nữa... 70 % còn lại, theo thời gian và khi xu thế dân chủ phát triển, cũng phải mở mắt ra và nhỏ lệ cùng dân thôi, không thể cứ "có mắt giả mù, có tai giả điếc, thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung" mãi được
- Đấy là yếu tố khách quan, còn chủ quan?
- Thì nội bộ đảng qua các cuộc thanh trừng nội bộ, thủ tiêu cung đình đã tự làm mình bị suy vong đi rồi. Tất cả đều tiểu nhân, khốn nan, có ai biết lo cho dân cho nước đâu, chính những ám chúa hôn quân này sẽ làm sập vương triều cộng sản. Hơn nữa còn cái chết của Lê Đức Anh trong năm 2007, còn sự thoái vị của Nông Đức Mạnh giữa nhiệm kỳ vào giữa năm 2007, còn áp lực của WT0, của các đại gia trong giới kinh doanh tại Việt Nam, sự can thiệp vào tận nội bộ của bộ chính trị Việt Nam của Mỹ v.v
- Cứ cho là như thế, nhưng nếu tôi không nhầm thì đã có lần trong một bài viết chị khẳng định năm 2005 đảng cộng sản Việt Nam sụp đổ đúng không?
- Vâng, đấy là mong muốn của tôi trong bài "từ quốc nạn đến dân nạn", căn cứ vào những chu kỳ thời gian và các ngẫu hứng lịch sử.
- Trong bài chị phân tích rất hay, và cũng rất có lý, tại sao nó lại không xảy ra vậy?
- Lịch sử là tuỳ hứng mà, lúc nhanh, chậm,lúc nghỉ ngơi, nhưng cuối cùng cũng đến đích mà thôi.
- Cụ thể chị viết: Nhìn lại 120 năm lịch sử đất nước với 3 năm ất dậu (1885-1945-2005) mà mừng thầm cho sự lặp lại quá tam ba bận của năm ất dậu lần này. Lịch sử không những có tai, mắt trí nhớ, còn diễn ra theo một chu kỳ tưởng ngẫu hứng mà thật nghiêm ngặt theo chu kỳ một thập niên, hay mỗi hoa giáp một lần.
- Vâng: Thời kỳ 1885-1945 là 60 năm đau thương của dân tộc, khởi đầu bằng cuộc phản công của phái chủ chiến trong triều đình Huế với sự tham gia của vua Hàm Nghi, tấn công vào đồn Pháp tháng 7-1885, tạo đà cho phong trào chống Pháp lan rộng, đặc biệt là ở trung kỳ. Tuy cuộc phản công bất thành, vua Hàm Nghi phải bôn tẩu ở xứ người, nhưng ngay khi vua ban dụ cần vương đã tập hợp lực lượng đông đảo quần chúng tham gia chống Pháp, tạo nên một trang sử vẻ vang trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Cuộc kháng chiến chỉ kéo dài trong mười năm, với những tấm gương chói lọi trong các vụ Ba Đình, Vũ Quang, Yên Thế... đủ để thức tỉnh toàn thể dân Việt tìm ra một chân lý, bãn lĩnh sống cho riêng mình: kẻ thù dù mạnh nhưng nếu biết đồng sức đồng lòng cũng có thể đánh bại được.
Thời kỳ từ 1945 đến 2005: Sau biến cố vĩ đại của lịch sử dân tộc, Cách mạng Việt Nam vừa kịp ra khỏi bóng tối, nở hoa chiến thắng trong lòng người dân, kết thúc cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lại hoà bình ở đông dương, giải phóng hoàn toàn đất nước từ vĩ tuyến 17 trở ra, chưa kịp mở ra con đường phát triển cho miền Bắc đã lập tức sa vào cải cách ruộng đất do quan thầy Trung Quốc đề xướng, hàng vạn người vô tội bị giết, bị đấu tố, bị quy sai địa chủ, bao nhiêu con người phải chôn sấp vì sợ nòi giống địa chủ lộn trở lại dương thế, đầu thai thành địa chủ mới. Nước mắt bao gia đình còn chảy đến muôn đời... Sau đó (1965) là thời kỳ Mỹ phát động cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc, đưa ồ ạt quân Mỹ vào miền Nam, cuộc chiến ác liệt lan ra cả nước, một nửa con em ưu tú của miền Bắc đánh nhau với một nửa thanh niên miền Nam, gây cảnh "nồi da xáo thịt" làm ấm lòng cha già dân tộc như câu thơ người viết "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào." Tiếp đến là năm 1975: Miền Nam hoàn toàn "giải phóng", Bắc Nam liền một dải, để lại sau lưng 4 triệu người chết, hàng vạn cô nhi, quả phụ, nạn nhân chiến tranh... Chưa kịp hàn gắn vết thương chiến tranh thì năm 1985: Cả nước tiến hành đổi tiền, chính sự dốt nát, phi lý trong việc điều chỉnh giá lương tiền (đứng đầu là Tố Hữu) đã đẩy mâu thuẫn xã hội lên cao, lòng người dao động, bao nhiêu gia đình lâm vào cảnh sống dở chết dở vì đồng tiền trượt giá cả trăm lần. Sau đó là sự cáo chung của thời bao cấp, cơ chế thị trường, hội nhập mở ra, chấm dứt một thời kỳ dài lặn ngụp, loay hoay trong vũng lầy kinh tế, con thuyền đổi mới lặng lẽ ra khơi, cũng là chấm dứt 20 năm cấm vận của Mỹ, bình thường hoá quan hệ hai nước. Cuối cùng là 2005: Trên bầu trời Hà Nội những ngày đầu tiên của năm mới đã vang rền tiếng sấm, những ai am hiểu thiên thời địa lợi đều không khỏi ám ảnh bởi câu ca cũ của ông cha: mồng một sấm ra, báo hiệu sự lành ít, dữ nhiều, vận mệnh đất nước suy vong. - Thực tế điều đó đã không xảy ra, vậy biết đâu năm 2008 cũng không xảy ra thì sao?
- Tôi nghĩ, cũng có thể nó bị vướng cái đuôi "định hướng" nên đã đến chậm so với dự liệu, chỉ có điều 78 năm trời dân Việt phải rên xiết lầm than, dưới ách quân cộng sản tham nhũng mị dân (1930-2008) là đủ lắm rồi. Cái gì cần phải đến sẽ đến trong năm 2008 định mệnh này.
- Thôi được, cứ cho những điều chị mong muốn là chính xác đi, vì điều ước muốn của chị cũng là ước muốn của toàn dân, xin hỏi chị một câu hỏi khác. Chị bị bắt thế này hội nhà văn có can thiệp gì không?
- Họ không đuổi tôi là may rồi.
- Ô hay, thế vào hội để làm gì, không phải tương ái tương thân đùm bọc lẫn nhau những lúc như thế này à?
- Thứ nhất, tất cả các hội hè đảng phái ở Việt Nam đều hoạt động theo nghị quyết của đảng, phục vụ đường lối chính sách của đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải vì văn chương nghệ thuật, đúng như nhà văn Tạ Duy Anh nói: "ở xứ ta văn nghệ sĩ có quyền làm bất cứ điều gì, trừ... nghệ thuật".
- Thứ 2 dưới sự trù dập áp đặt, quy kết của đảng cộng sản Việt Nam thì tôi là một nhà văn, nhà báo phản động, chuyên nhặt tin của bà con dân oan cung cấp viết bài nói xấu đảng và nhà nước để bán ra nước ngoài lấy tiền của bọn "lưu vong phản động", nghĩa là trở thành "giặc" như thế này thì họ phải sợ, phải tránh xa, phải khai trừ để danh tiếng của hội không bị ảnh hưởng, để cho những kẻ muốn đánh đu chính trị như tôi, không còn cơ hội phá Đảng nữa... Hơn nữa cái gọi là tính tương ái tương thân trong hội kém lắm, như nhà văn Yên Thao đã viết:
Ghét nhau chung chiếu không ngồi
Chung chăn không đắp, chung nồi không ăn Chỉ riêng cái hội nhà văn
Ghét nhau như chó vẫn lăn lưng vào.
- Nghĩa là chị đang chuẩn bị tinh thần... bỏ đi trước? Cánh tay cầm bút luôn quyết chí vung lên?
- Vâng, không hiểu sao từ khi cất tiếng khóc chào đời, một bà "giặc bên Ngô" đã kết luận tôi là một kẻ bất trị, nếu là con trai còn trị được chứ con gái thì... bất trị, vì thế tôi là một trong số rất ít phụ nữ ở Việt Nam không chịu cảnh "cha mẹ sinh con, đảng đoàn và chủ nghĩa xã hội sinh tính" mà ngược lại, tôi chỉ thích sinh tính cho... đảng cầm quyền, thông qua những bài viết của mình.
- Chị có nghĩ chị sẽ thành một ngọn cờ dân chủ... hay chí ít cũng là một chiến sĩ dân chủ đấu tranh cho tự do dân chủ của nước nhà không?
- Không, không, tôi chỉ thích làm chiến sĩ thi... đùa thôi, không làm chiến sĩ thi đua đâu. Khó lắm, những việc to tát đại sự phải để cho lớp trẻ hoặc các đấng trượng phu gánh vác như anh Đỗ Nam Hải, Lê Chí Quang, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn chứ. Phần tôi chỉ tốc cái váy thi ca lên mặt chính thể này là mệt lắm rồi.
- Yên tâm, sẽ có người cùng tốc với chị. Nhà văn Trần Mạnh Hảo chẳng hạn... Cuối cùng, xin cám ơn nữ nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ, xin hẹn gặp chị vào dịp khác.
- Dạ xin cám ơn anh (Việt Hùng, Tường Thắng, Nam Phong). Mong sớm đến 2008 để chúng ta cùng nâng cốc chúc mừng Đảng Cộng sản Việt Nam mồ yên mả đẹp.
TKTT (ghi)
(VNN)
(Tổng hợp lại từ các cuộc trả lời phỏng vấn đài RFA, Paltalk, Vietnam Exodus, Đài truyền hình Hải Ngoại thông qua các phóng viên Việt Hùng, Tường Thắng, Nguyễn Nam Phong....)
Phóng viên: - Lý do chị bị bắt
Trần Khải Thanh Thuỷ: - Họ sợ tôi.
- Sợ một người phụ nữ như chị sao?
- Vâng chính xác hơn là họ sợ sự thực, những gì có lợi cho dân chủ thì bất lợi với độc tài, bản chất của đảng cộng sản Việt Nam là độc tài tham lam, dối trá. Với bản chất thối nát như vậy, họ rất sợ bị vạch trần, mà tôi chỉ thích dùng ngòi bút của mình để vạch trần bộ mặt thật khốn nạn, xấu xa của đảng. Trong cơn sợ hãi họ đã tung đòn đánh trước, như đã từng đánh tất cả những nhà dân chủ, bất đồng chính kiến khác ở Việt Nam.
- Thế khi bị bắt chị có sợ họ không?
- Cho đến lúc này thì không, bởi ít nhất tôi đã có 5 năm kinh nghiệm đối phó với các trò đểu cáng, độc ác của họ. Bài học dân chủ mà tôi tự rút ra cho mình là: - Không nên sợ một cái xác đã hấp hối, chỉ nên đề phòng những kẻ cuồng tín, qúa khích mà thôi. Như cách mà bác Hoàng Minh Chính, Hà sĩ Phu đã gặp vậy.
- Làm sao chị dám kết luận là đảng đang hấp hối, thực tế chúng nó vẫn đang mạnh lắm mà?
- Là nhà văn tôi luôn có những dự liệu tiên đoán cho mình, theo tôi lịch sử Việt Nam đang có những bước chuyển gấp, thời gian không còn ngừng trong tê tái như 31 năm ròng rên xiết lầm than, dưới ách quân cộng sản tham nhũng mị dân nữa mà đang như người bị bập vào còng số 8 lôi đi. Kể từ đầu năm 2005, khi cơn sấm đầu tiên giữa ngày mồng 1 tết, đã báo hiệu một sự chuyển động lớn trong lòng người dân Việt Nam, hàng trăm các cuộc biểu tình biểu tình lớn, nhỏ (dù còn mang tính bộc phát) của công nhân, và dân oan Việt Nam (Trước cửa nhà lãnh đạo, vườn hoa Mai Xuân Thưởng, văn phòng chính phủ, văn phòng quốc hội v.v), điều này kể từ trước thời 2004, chưa từng xảy ra.
- Theo chị đến khi nào thì đảng sẽ chấm dứt chế độ độc tài này?
- Theo xét đoán chủ quan của tôi thì chậm nhất đến đầu 2008, tôi và 85 triệu đồng bào cả trong và ngoài nước sẽ ngồi cùng với nhau để nâng cốc chúc cho đảng cộng sản mồ yên mả đẹp.
- Chị có lạc quan tếu không?
- Tất nhiên là tôi phải lạc quan rồi, không lạc quan sao tôi dám đi trên con đường chông gai này? Sao tôi có thể quăng thẳng vào mặt chúng nó những lời như dao chém đá khi chúng cố tình hù doạ sẽ kết án tôi ít nhất mười năm tù. Còn tếu thì chưa phải lúc. Mặc dù tính tôi vốn tếu táo, hài hước.
- Thế hôm ấy chị trả lời chúng như thế nào? Lặp lại câu trả lời của Võ thị Thắng à?
- Vâng. Lịch sử đang sửa đổi lại những sai lầm của mình, nếu khi ấy Võ thị Thắng mong cho chế độ Việt Nam cộng hoà đổ, thì bây giờ sau hơn 30 năm, tôi mong chế độ cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đổ, nên tôi nói thẳng: Xin lỗi các người đi, đố các người động đến lông chân tôi đấy. Làm sao các người tồn tại nổi 2 năm nữa mà đòi kết án tôi 10 năm chứ?
- Chúng trả lời sao?
- Chúng đánh trống lảng bằng cách bỡn cợt, vì biết tính tôi vốn hay hài: "Nhưng chân chị làm gì có lông? Lông chị mọc ở chỗ khác chứ. Đâu phải ở chân, đúng không?
- Trở lại lời tiên đoán của chị, căn cứ vào đâu chị bảo chậm nhất năm 2008 đảng sẽ chết?
- Căn cứ vào thực tế đang diễn ra, tôi khẳng định chế độ độc tài hiện tại chỉ tồn tại trên cơ sở lính mú, nghĩa là chỉ tồn tại nhờ hai lực lượng là bộ đội và công an thôi, còn nhân dân cũng bắt đầu nhận ra bộ mặt thật bẩn tưởi thông qua những lần bầu cử, đại hội, hay các cuộc càn quét lấn dân, cướp đất, cướp nhà rồi. Riêng với quân đội thì không ngại, vì tuy được hưởng sự đặc quyền, đặc lợi nhưng phần đông trong số họ đều xác định được mình từ nhân dân mà ra nên trả lời thẳng: Chúng tôi không quay súng vào đồng bào mình. Nhiệm vụ của chúng tôi là bảo vệ biên giơí của tổ quốc, không cho kẻ thù xâm lược, chứ không phải đàn áp, chém giết bà con. Còn công an hiện tại vẫn ngu trung lắm, vì từ khi ngồi trên ghế trường an ninh đã phải tuyên thệ rồi, nên chỉ biết có đảng của mình, không cần biết nguồn gốc số lương hàng tháng từ đâu mà có. Tuy nhiên những kẻ làm ác rất sợ luật trời, rất nhiều người trong số họ sinh con tật nguyện, nào câm, nào điếc, nào dị hình, dị dạng nên 30% trong số công an cũng biết dừng bước trước tội ác, không ra mặt chống đối chính quyền, nhưng cũng không dám mạnh tay khủng bố đồng bào nữa... 70 % còn lại, theo thời gian và khi xu thế dân chủ phát triển, cũng phải mở mắt ra và nhỏ lệ cùng dân thôi, không thể cứ "có mắt giả mù, có tai giả điếc, thích nghe nịnh hót, ghét bỏ lời trung" mãi được
- Đấy là yếu tố khách quan, còn chủ quan?
- Thì nội bộ đảng qua các cuộc thanh trừng nội bộ, thủ tiêu cung đình đã tự làm mình bị suy vong đi rồi. Tất cả đều tiểu nhân, khốn nan, có ai biết lo cho dân cho nước đâu, chính những ám chúa hôn quân này sẽ làm sập vương triều cộng sản. Hơn nữa còn cái chết của Lê Đức Anh trong năm 2007, còn sự thoái vị của Nông Đức Mạnh giữa nhiệm kỳ vào giữa năm 2007, còn áp lực của WT0, của các đại gia trong giới kinh doanh tại Việt Nam, sự can thiệp vào tận nội bộ của bộ chính trị Việt Nam của Mỹ v.v
- Cứ cho là như thế, nhưng nếu tôi không nhầm thì đã có lần trong một bài viết chị khẳng định năm 2005 đảng cộng sản Việt Nam sụp đổ đúng không?
- Vâng, đấy là mong muốn của tôi trong bài "từ quốc nạn đến dân nạn", căn cứ vào những chu kỳ thời gian và các ngẫu hứng lịch sử.
- Trong bài chị phân tích rất hay, và cũng rất có lý, tại sao nó lại không xảy ra vậy?
- Lịch sử là tuỳ hứng mà, lúc nhanh, chậm,lúc nghỉ ngơi, nhưng cuối cùng cũng đến đích mà thôi.
- Cụ thể chị viết: Nhìn lại 120 năm lịch sử đất nước với 3 năm ất dậu (1885-1945-2005) mà mừng thầm cho sự lặp lại quá tam ba bận của năm ất dậu lần này. Lịch sử không những có tai, mắt trí nhớ, còn diễn ra theo một chu kỳ tưởng ngẫu hứng mà thật nghiêm ngặt theo chu kỳ một thập niên, hay mỗi hoa giáp một lần.
- Vâng: Thời kỳ 1885-1945 là 60 năm đau thương của dân tộc, khởi đầu bằng cuộc phản công của phái chủ chiến trong triều đình Huế với sự tham gia của vua Hàm Nghi, tấn công vào đồn Pháp tháng 7-1885, tạo đà cho phong trào chống Pháp lan rộng, đặc biệt là ở trung kỳ. Tuy cuộc phản công bất thành, vua Hàm Nghi phải bôn tẩu ở xứ người, nhưng ngay khi vua ban dụ cần vương đã tập hợp lực lượng đông đảo quần chúng tham gia chống Pháp, tạo nên một trang sử vẻ vang trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc. Cuộc kháng chiến chỉ kéo dài trong mười năm, với những tấm gương chói lọi trong các vụ Ba Đình, Vũ Quang, Yên Thế... đủ để thức tỉnh toàn thể dân Việt tìm ra một chân lý, bãn lĩnh sống cho riêng mình: kẻ thù dù mạnh nhưng nếu biết đồng sức đồng lòng cũng có thể đánh bại được.
Thời kỳ từ 1945 đến 2005: Sau biến cố vĩ đại của lịch sử dân tộc, Cách mạng Việt Nam vừa kịp ra khỏi bóng tối, nở hoa chiến thắng trong lòng người dân, kết thúc cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, lập lại hoà bình ở đông dương, giải phóng hoàn toàn đất nước từ vĩ tuyến 17 trở ra, chưa kịp mở ra con đường phát triển cho miền Bắc đã lập tức sa vào cải cách ruộng đất do quan thầy Trung Quốc đề xướng, hàng vạn người vô tội bị giết, bị đấu tố, bị quy sai địa chủ, bao nhiêu con người phải chôn sấp vì sợ nòi giống địa chủ lộn trở lại dương thế, đầu thai thành địa chủ mới. Nước mắt bao gia đình còn chảy đến muôn đời... Sau đó (1965) là thời kỳ Mỹ phát động cuộc chiến tranh đánh phá miền Bắc, đưa ồ ạt quân Mỹ vào miền Nam, cuộc chiến ác liệt lan ra cả nước, một nửa con em ưu tú của miền Bắc đánh nhau với một nửa thanh niên miền Nam, gây cảnh "nồi da xáo thịt" làm ấm lòng cha già dân tộc như câu thơ người viết "đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào." Tiếp đến là năm 1975: Miền Nam hoàn toàn "giải phóng", Bắc Nam liền một dải, để lại sau lưng 4 triệu người chết, hàng vạn cô nhi, quả phụ, nạn nhân chiến tranh... Chưa kịp hàn gắn vết thương chiến tranh thì năm 1985: Cả nước tiến hành đổi tiền, chính sự dốt nát, phi lý trong việc điều chỉnh giá lương tiền (đứng đầu là Tố Hữu) đã đẩy mâu thuẫn xã hội lên cao, lòng người dao động, bao nhiêu gia đình lâm vào cảnh sống dở chết dở vì đồng tiền trượt giá cả trăm lần. Sau đó là sự cáo chung của thời bao cấp, cơ chế thị trường, hội nhập mở ra, chấm dứt một thời kỳ dài lặn ngụp, loay hoay trong vũng lầy kinh tế, con thuyền đổi mới lặng lẽ ra khơi, cũng là chấm dứt 20 năm cấm vận của Mỹ, bình thường hoá quan hệ hai nước. Cuối cùng là 2005: Trên bầu trời Hà Nội những ngày đầu tiên của năm mới đã vang rền tiếng sấm, những ai am hiểu thiên thời địa lợi đều không khỏi ám ảnh bởi câu ca cũ của ông cha: mồng một sấm ra, báo hiệu sự lành ít, dữ nhiều, vận mệnh đất nước suy vong. - Thực tế điều đó đã không xảy ra, vậy biết đâu năm 2008 cũng không xảy ra thì sao?
- Tôi nghĩ, cũng có thể nó bị vướng cái đuôi "định hướng" nên đã đến chậm so với dự liệu, chỉ có điều 78 năm trời dân Việt phải rên xiết lầm than, dưới ách quân cộng sản tham nhũng mị dân (1930-2008) là đủ lắm rồi. Cái gì cần phải đến sẽ đến trong năm 2008 định mệnh này.
- Thôi được, cứ cho những điều chị mong muốn là chính xác đi, vì điều ước muốn của chị cũng là ước muốn của toàn dân, xin hỏi chị một câu hỏi khác. Chị bị bắt thế này hội nhà văn có can thiệp gì không?
- Họ không đuổi tôi là may rồi.
- Ô hay, thế vào hội để làm gì, không phải tương ái tương thân đùm bọc lẫn nhau những lúc như thế này à?
- Thứ nhất, tất cả các hội hè đảng phái ở Việt Nam đều hoạt động theo nghị quyết của đảng, phục vụ đường lối chính sách của đảng cộng sản Việt Nam chứ không phải vì văn chương nghệ thuật, đúng như nhà văn Tạ Duy Anh nói: "ở xứ ta văn nghệ sĩ có quyền làm bất cứ điều gì, trừ... nghệ thuật".
- Thứ 2 dưới sự trù dập áp đặt, quy kết của đảng cộng sản Việt Nam thì tôi là một nhà văn, nhà báo phản động, chuyên nhặt tin của bà con dân oan cung cấp viết bài nói xấu đảng và nhà nước để bán ra nước ngoài lấy tiền của bọn "lưu vong phản động", nghĩa là trở thành "giặc" như thế này thì họ phải sợ, phải tránh xa, phải khai trừ để danh tiếng của hội không bị ảnh hưởng, để cho những kẻ muốn đánh đu chính trị như tôi, không còn cơ hội phá Đảng nữa... Hơn nữa cái gọi là tính tương ái tương thân trong hội kém lắm, như nhà văn Yên Thao đã viết:
Ghét nhau chung chiếu không ngồi
Chung chăn không đắp, chung nồi không ăn Chỉ riêng cái hội nhà văn
Ghét nhau như chó vẫn lăn lưng vào.
- Nghĩa là chị đang chuẩn bị tinh thần... bỏ đi trước? Cánh tay cầm bút luôn quyết chí vung lên?
- Vâng, không hiểu sao từ khi cất tiếng khóc chào đời, một bà "giặc bên Ngô" đã kết luận tôi là một kẻ bất trị, nếu là con trai còn trị được chứ con gái thì... bất trị, vì thế tôi là một trong số rất ít phụ nữ ở Việt Nam không chịu cảnh "cha mẹ sinh con, đảng đoàn và chủ nghĩa xã hội sinh tính" mà ngược lại, tôi chỉ thích sinh tính cho... đảng cầm quyền, thông qua những bài viết của mình.
- Chị có nghĩ chị sẽ thành một ngọn cờ dân chủ... hay chí ít cũng là một chiến sĩ dân chủ đấu tranh cho tự do dân chủ của nước nhà không?
- Không, không, tôi chỉ thích làm chiến sĩ thi... đùa thôi, không làm chiến sĩ thi đua đâu. Khó lắm, những việc to tát đại sự phải để cho lớp trẻ hoặc các đấng trượng phu gánh vác như anh Đỗ Nam Hải, Lê Chí Quang, Nguyễn Văn Đài, Nguyễn Vũ Bình, Phạm Hồng Sơn chứ. Phần tôi chỉ tốc cái váy thi ca lên mặt chính thể này là mệt lắm rồi.
- Yên tâm, sẽ có người cùng tốc với chị. Nhà văn Trần Mạnh Hảo chẳng hạn... Cuối cùng, xin cám ơn nữ nhà văn Trần Khải Thanh Thuỷ, xin hẹn gặp chị vào dịp khác.
- Dạ xin cám ơn anh (Việt Hùng, Tường Thắng, Nam Phong). Mong sớm đến 2008 để chúng ta cùng nâng cốc chúc mừng Đảng Cộng sản Việt Nam mồ yên mả đẹp.
TKTT (ghi)
04 October 2006
Đường xa nghĩ nỗi sau này... mà kinh!
Trần Khải Thanh Thuỷ
Với sự lãnh đạo chuyên quyền, độc đoán, vừa yếu, vừa thiếu của Đảng Cộng Sản, cái được chỉ là bề nổi, thiểu số, còn cái mất là tất yếu, số đông. Đánh giá tầm vóc và chất lượng đời sống của một quốc gia, chính xác nhất là xem nền giáo dục quốc gia ấy đang nằm ở điểm nào. Vì vậy muốn biết rõ cái gọi là sự nghiệp “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” sau 20 năm “đổi mới” “định hướng” (mà nhiều người vẫn hãnh diện, tự hào) ở Việt Nam thì hãy xem qua nền giáo dục hiện tại… Không còn cách nào khác ngoài cách mượn từ của cụ Tiên Điền Nguyễn Du để lẩy: “Đường xa... nghĩ nỗi sau này mà... kinh”!
Theo nhận đjnh của nhiều nhà khoa học, từ năm 2020-2025 là thời điểm nước ta có thể bắt đầu trở thành nước công nghiệp tiên tiến. Trong khi đó những nhân tài làm nên sự nghiệp “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đa phần đang ngồi trên ghế trường tiểu học, mẫu giáo mà điều nghịch lý trớ trêu là hàng vạn giáo viên chỉ được hưởng mức lương “ba cọc ba đồng” (700 đến 800 ngàn đồng một tháng). Trong đó (điều tra của năm học 2005-2006) còn 84.352 cô mẫu giáo cám cảnh hơn, hưởng lương thoả thuận, hợp đồng do hợp tác xã trả bằng 150 kg thóc (quy thành tiền chưa đến 400.000 đồng Việt Nam một tháng – tức khoảng 25 USD).
Ngạn ngữ Anh có câu: “Chúng ta ăn để sống, chứ không phải sống để ăn”. Với mức điều hoà ít ỏi như vậy, quả là ăn cũng chẳng đủ, nói gì đến các nhu cầu “người” khác. Nào học hành, hoàn thiện, nâng cao tay nghề, dạy dỗ các cháu v.v... Nhu cầu “con” không đủ kéo theo bao hậu quả nhỡn tiền... Người cô ở lớp, lòng cô ở... đường, chợ, nơi mà “tiền đồ” hơn hẳn cái nghề dạy dỗ nhếch nhác này. Vì điều kiện nghiệt ngã như vậy nên bao năm nay, các cô bị các bậc phụ huynh gọi chệch thành... cô nuôi dạy... cọp. Còn lũ nhất quỷ nhì ma, độ tuổi thò lò mũi xanh cũng chẳng kém. Thay vì lời hát cô giáo như mẹ hiền, chúng đặt ngay cho các cô danh hiệu: Cô giáo như mẹ mìn... Đơn giản vì các cháu đến lớp cũng sợ các cô như sợ cọp (!). Bị ép ngủ, nhồi ăn, nghe la hét và bị ngồi bô cho tớí khi bố mẹ đón về. Một ngày dài dằng dặc lê thê... đối với cả cô và cháu: Ba thu dồn lại của cụ Tiên Điền Nguyễn Du cũng chẳng bằng.
Muốn thay đổi chất lượng, chỉ còn cách biến đổi hoàn toàn cuộc sống cho cả cô và cháu. Tiếc thay, lãnh đạo hợp tác xã phần đông xoá mù ở cổng trường tiểu học, hệ “đại học chữ to”, nên đã vô tình biến cái nghề nuôi dạy trẻ cao quý - vì lợi ích trăm năm trồng người - này thành nghề... cau có, trong những nghề cau có (!). Suốt ngày tiếp xúc với quần áo đái dầm, bưng bê, dọn dẹp, hầu hạ con thiên hạ mà bản thân mình vẫn nghèo khó túng quẫn! Mọi điều kiện vật chất tối thiểu chi dùng cho nhu cầu tự thân trong cuộc đời vẫn chỉ là “thoả mãn bần cố nông”, cơm ba bát, áo ba manh, đành quên bệnh tật đi mà sống như đồng bào đồng bằng sông Cửu Long hàng năm vẫn sống chung với lũ. Tiếc là ngoài các đòi hỏi cần thiết như ăn, mặc, ở , giao tiếp, xã giao, còn đủ mọi khoản phát sinh khác như sinh nhật, đám cưới, đám tang, giỗ chạp, tân gia v.v. Vì vậy làm sao cô có thể ngồi ôm cháu, nựng ru cho cháu ngủ bằng những lời ca tiếng hát ầu ơ, chứa chan sâu lắng hoặc tỉ mẩn hàng giờ hướng dẫn các cháu cách chơi, gấp giấy, cắt hoa, học múa hát được! (Chỉ có một số lượng rất nhỏ các trường ở nội thành Hà Nội, địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và một số ít khu vực thành phố, thị xã khác là tàm tạm về chất lượng).
Học sinh ở độ tuổi nhi đồng, vườn trẻ, mẫu giáo coi các cô như một khuôn mẫu, tấm gương sống động để nhìn vào, nghe theo, bắt chước. Người “trồng cây, ươm hạt” nghèo nàn cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần thì những cây con làm sao đủ tố chất dinh dưỡng cần thiết để vươn lên? Cả số tiền nhỏ giọt, thảm hại, ngán ngẩm đầu tư cho sự nghiệp “trồng người” nữa. Theo giấy tờ sổ sách - với đối tượng phổ thông (cơ sở và trung học) từ 15 -20 USD một người/năm. Vào được đại học, số tiền đào tạo là 40 USD một người/ năm. So với Mỹ - đất nước bị Đảng Cộng sản rêu rao là ít nhân quyền nhất, hay với Nhật cùng là “nền văn minh cầm đũa” lại chỉ băng 1/70 đến 1/100 (3.000- 4.000 USD). Nước chảy chỗ trũng, thử hỏi tài năng chất xám bao nhiêu năm trôi về đâu? Hay viễn cảnh: “Tò vò mà nuôi con nhện, đến khi nó lớn nó quện nhau đi, tò vò ngồi khóc tỉ ti, nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào?” - là điều tất yếu. Ở nông thôn hễ thi đỗ đại học là tìm mọi cách ở lại thành phố - ăn đậu, nằm chờ, nhờ cậy “gõ cửa trăm nơi” mong có cơ may đổi đời... Còn học sinh giỏi cấp quốc gia, quốc tế cứ có điều kiện du học nước nào là hầu hết tìm mọi cách ở lại định cư, nhập quốc tịch nước ấy để có cơ hội thăng tiến hơn… (Tất nhiên là loại trừ một số trường hợp con cả, cậu ấm thuộc diện 4C - CCCC (Con Các Cụ Cả), nhà đã sẵn cao, cửa đã sẵn rộng, ghế xa lông của một tổng công ty quốc doanh hay sếp trong một cơ quan nhà nước ngon lành nào đấy đã được thân phụ, thân mẫu đặt trước).
Sắn khoai khô cũng nuôi nổi con người, song trí tuệ nghèo nàn không bao giờ làm nên sự nghiệp. Với mức đầu tư nhỏ giọt, được chăng hay chớ, đào tạo lấy được, học để lấy bằng chứ không cần lấy kiến thức, nên ngay từ những năm tháng đi học đầu tiên... số vào đại học đã ít (thông thường 1 chọi 100 hoặc hơn) song 60% số sinh viên ra trường ở mức độ trung bình, yếu, kém phải dùng “nạng chống”, “đòn bẩy” để vượt qua mức xà quy định! Nào photocopy, sao chép, “phao bơi” trong giờ thi, nào quan hệ lòng vòng, cửa tiền cửa hậu, dùng quà, phong bì mua thầy, cô... 30% còn lại tìm cách quện nhau đi vặt hái khế ngọt ở quê người, xứ người. Quê hương là con đò nhỏ, trong tình trạng đất chật, người đông, tất cả mấy triệu người cùng chất lên... quả thực đò nhỏ cũng chòng chành, chao đảo. Việc “tay gậy tay bị khắp nơi tung hoành” tìm miền đất hứa để tránh cảnh “đắm đò” là điều dễ hiểu.
Giữa cuộc thi hoa hậu và học sinh giỏi toàn quốc, người được tài trợ, đầu tư triệt để hơn, trớ trêu thay lại là hoa hậu. Chỉ cần làm mấy động tác uốn éo, ưỡn ngực, liếc mắt, đưa tình khoe bụng gọn đùi thon, và khả năng ứng xử nông choèn, dở ẹt là được nhận giải thưởng 10 triệu (hoa hậu), 7 triệu (á hậu). Trong khi các đối tượng học sinh giỏi quốc tế, trường Amsterdam, đại học quốc gia nhân văn v.v... bao lần đoạt huy chương vàng, bạc, đem lại niềm tự hào đích thực cho nước nhà, từng học hành gầy người, sút cân, mắt mờ, óc nứt theo khẩu hiệu “Học! Học nữa!... hộc máu”, mà chiếc vi tính 5 triệu đồng lọai second hand, third hand, vẫn còn là điều... tính nhầm, mơ hão.
Xem ra cái sự học mới khốn khó làm sao. Ngay trong địa phận nước nhà đã đầy những nghịch lý mâu thuẫn, nhìn xa trông rộng ra nước ngoài để so sánh mình với họ còn thiệt thòi, phi lý đến đâu.
Kể từ Trung thu hoà bình đầu tiên, với mong muốn thế hệ con cháu phải học tập rèn luyện để đưa nước nhà sánh vai với các cường quốc năm châu. Cụ Hồ đã viết: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu...”. Dân tộc Việt Nam vốn thông minh, anh hùng, điều ấy khó ai phủ nhận nổi. Song sự học hành về tổng thể hơn 60 năm qua mới chỉ là... người lùn sánh vai với người khổng lồ. Trong khi trẻ em trong độ tuổi đến trường ở Nhật Bản là 100%, Hàn Quốc 91%, Đài Loan và Singapore 96% thì ở Việt Nam (thống kê năm học 2005-2006) là 15,7 % với độ tuổi phổ thông trung học, 48,8% với trung học cơ sở và 30,1% với đối tượng vườn trẻ, mẫu giáo.
Từ ngày cơ chế thị trường mở ra, hiện tượng tái mù có chiều hướng tăng cao. Biết bao nữ giáo viên chịu cảnh “Đêm khuya thân gái dặm trường”, lên khai hoá văn minh cho đồng bào dân tộc, vào tận bản vận động cha mẹ học sinh cho con em vào phổ thông trung học. Nhiều phụ huynh trả lời “đúng như cái bụng mình nghĩ”: Cô giáo à! Học lớp 7 là chữ nhiều như lá cây trên rừng rồi, cần gì phải học nữa? Chỉ cần học đủ 4 phép tính, biết cái mặt chữ để xuống chợ bán măng, mua muối, khỏi bị người kinh bắt nạt thôi!
Với người kinh lên khai hoang kinh tế, sự trả lời còn dữ dằn hơn: “Từ xưa đến nay chúng tôi chỉ nhìn thấy mả của người chết đói chứ có mả của người chết dốt đâu? Đã kéo nhau lên tận “góc tăm tối cuối cùng” này, nơi ánh sáng văn hoá của Đảng, Bộ, Sở chỉ còn le lói... thì theo đuổi học hành, đóng góp mà làm gì? Cuối cùng lại là cảnh: Đời ông lặp lại đời cha, đời con cháu giống mãi đời cụ kỵ, quý khoai bắp như là sâm với quế... Không đứt bữa, ốm đau là được rồi ”...
Những câu trả lời khiến cô, thầy phải rơi nước mắt, lặng lẽ ra về, cúi đầu trong tiếng nấc, thương trò, thương mình, thương cho “sự nghiệp trồng người” èo uột của mình. Không kể trong năm học, các giáo viên chủ nhiệm vài ngày lại phát hiện ra một em trong lớp minh “bốc hơi” đâu mất. Đến tận nhà tìm hiểu gia cảnh, nguyên nhân thì được giải thích: “Cũng muốn thắt lưng buộc bụng, đắm đuối vì con lắm... nhưng không thể thắt được rồi cô ạ. Trăm thứ tiền đè lên đầu: Nào xây dựng trường, bảo hiểm xã hội, học phí, quỹ phụ huynh v.v… Tất cả trông vào hột thóc, hoa màu. Mùa rét còn được 5 - 6 ngàn đồng một cân cà chua, 3 ngàn đồng một cân bắp cải, chứ ấm lên một chút là cả gánh dưa chuột, sà lách không đủ tiền mua 5 cuốn sách giáo khoa cho các cháu. Trong khi nhà 5, 7 miệng ăn, đành đói chữ để khỏi chết đói vậy cô giáo ạ”. Với lại... nhiều người rơm rớm chỉ ra cánh đồng trước mặt: Mấy đứa lớn đã tốt nghiệp lớp 12 cả rồi mà nào có thoát cảnh ông cha nó ngày trước đâu, vẫn “ông lão đánh trâu đi bừa, là con ông lão ngày xưa... đi cày” đấy chứ!
Ở thành phố, thị xã nơi có thu nhập ổn định, phong lưu, sự học hành còn lắm khó khăn, đến mức các bậc phụ huynh phải nhại thành bài hát: Tiền gì mà cao cao thế? Xin thưa rằng học phí. Thu gì mà đến là cao, ôi chao! Cha mẹ còn nước đi tu... thì ở nông thôn chuyện đóng góp, nuôi nấng, còn bấp bênh vất vả đến đâu? Sẵn ù lì chậm chạp vai u thịt bắp - thân rùa đâu cũng là thân phận rùa... Họ đành để con vĩnh viễn trong cảnh “ngu si hưởng thái bình” hoặc “tái mù” trở lại, miễn sao kiếm đủ miếng ăn giữ vững tuổi thọ của họ nhà Rùa là được.
Chính vì lẽ đó, học sinh đến trường ở các tỉnh miền núi, phía Nam càng thấp hơn: Tại Minh Hải cứ 222 cháu trong độ tuổi đi học mới có một cháu được đến trường, tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng là 1/191, Lạng Sơn 1/172, Lào Cai 1/127.
Mức lương hợp đồng của giáo viên đã thấp, song trong biên chế cũng chẳng khả dĩ hơn. Ở các nước công nghiệp, tư bản, lương giáo viên bình quân từ 4 – 6.000 USD một tháng (giáo sư đại học thì cao hơn nhiều). Còn ở Việt Nam tổng cổng tất tật các khoản lương, thưởng, ăn trưa, qua bao lần điều chỉnh, cải cách, nâng lương, bù giá, vẫn không quá 100 USD một tháng. Trong khi xăng lên giá 12.000/lít, hơi đốt lên giá 180.000 đồng 1 bình, gạo, nước, điện đóm cái gì cũng tăng. Người nghèo nhiều con đường kiếm ăn, túng thì phải tính và thế là sẵn sự “năng động”, họ chẳng chịu sống mòn như kiếp giáo Thứ ngày xưa mà ngược lại, sẵn sàng mài mòn danh dự, nhân cách để sống, cốt kiếm đủ ăn và khẳng định mọi nhu cầu về nhà ở, đồ vật sử dụng của mình và gia đình giữa đồng loại. Cách dễ dàng phổ biến nhất là “tấn công” túi tiền cha mẹ học sinh. Nào học trên lớp, phụ đạo vào thứ bảy, chủ nhật còn tranh thủ dỗ các cháu vào buổi chiều taị nhà v.v. và v.v. Dù Bộ, Sở, Ban ngành đã ra sắc lệnh cấm, song vẫn chỉ là hiện tượng “bắt cóc bỏ đĩa, đánh trống bỏ dùi”.
Giáo dục là quốc sách, thầy chẳng ra thầy, trò chẳng thành trò, trong khi đầu tư nhỏ giọt, đào tạo được chăng hay chớ, nên những tiêu cực trong đội ngũ thầy cô cứ phát sinh bời bời, ngày càng đông học sinh không vào được đại học, trung cấp, hoặc ra trường không có công ăn việc làm, đã trở thành... “xách cuốc” (!).
Đường xa... nghĩ nỗi sau này mà... kinh! Buộc phải viết ra những điều này vì không thể yên tâm vào sự vững bước của thế hệ trẻ trong thời đại công nghiệp hoá năm 2020- 2025. Bởi trình độ học vấn chung trong cả nước hiện tại quá thấp. Lấy số trường lớp chia đều cho các đầu dân đạt khoảng lớp 7, lớp 8. Còn ở nông thôn chỉ lớp 2, lớp 3.
Dù thế nào cũng phải cúi đầu khấn lạy cụ Tiên Điền Nguyễn Du và câu thơ bất hủ của cụ, không chỉ nói riêng về thân phận nàng Kiều mà nói về cả tiền đồ, tương lai sự học hành, giáo dục của nước nhà trong thời đại cộng sản, thanh thiếu niên thế hệ Hồ Chí Minh này. Không biết cả trăm cái đầu lãnh đạo có ai nghĩ đến… “nỗi sau này” cho dân cho nước được nhờ không hay cứ ù lì tăm tối mãi, để dân tộc Việt Nam mãi mãi là dân tộc yếu và một dân tộc dốt như lời cụ Hồ nhận định? Cho dù thế giới đang bước vào kỷ nguyên tin học, thế hệ @ (a-còng) chiếm tới hơn nửa dân số cả nước đi chăng nữa?
Đường xa, quả thật không dám nghĩ tiếp nữa, xin nhường sự nghĩ này cho ông bộ trưởng mới - Nguyễn Thiện Nhân. Hy vọng những câu thơ bút tre về ngành giáo dục không bao giờ còn ngân vang trong óc người dân nữa:
Tây Hồ tháng 9/2006
Trần Khải Thanh Thuỷ
“… Dân tộc Việt Nam vốn thông minh, anh hùng, điều ấy khó ai phủ nhận nổi. Song sự học hành về tổng thể hơn 60 năm qua mới chỉ là... người lùn sánh vai với người khổng lồ …”
31 năm là bao ngày
Mà trông Tổ quốc hao gầy, xác xơ?
Với sự lãnh đạo chuyên quyền, độc đoán, vừa yếu, vừa thiếu của Đảng Cộng Sản, cái được chỉ là bề nổi, thiểu số, còn cái mất là tất yếu, số đông. Đánh giá tầm vóc và chất lượng đời sống của một quốc gia, chính xác nhất là xem nền giáo dục quốc gia ấy đang nằm ở điểm nào. Vì vậy muốn biết rõ cái gọi là sự nghiệp “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” sau 20 năm “đổi mới” “định hướng” (mà nhiều người vẫn hãnh diện, tự hào) ở Việt Nam thì hãy xem qua nền giáo dục hiện tại… Không còn cách nào khác ngoài cách mượn từ của cụ Tiên Điền Nguyễn Du để lẩy: “Đường xa... nghĩ nỗi sau này mà... kinh”!
Theo nhận đjnh của nhiều nhà khoa học, từ năm 2020-2025 là thời điểm nước ta có thể bắt đầu trở thành nước công nghiệp tiên tiến. Trong khi đó những nhân tài làm nên sự nghiệp “công nghiệp hoá, hiện đại hoá” đa phần đang ngồi trên ghế trường tiểu học, mẫu giáo mà điều nghịch lý trớ trêu là hàng vạn giáo viên chỉ được hưởng mức lương “ba cọc ba đồng” (700 đến 800 ngàn đồng một tháng). Trong đó (điều tra của năm học 2005-2006) còn 84.352 cô mẫu giáo cám cảnh hơn, hưởng lương thoả thuận, hợp đồng do hợp tác xã trả bằng 150 kg thóc (quy thành tiền chưa đến 400.000 đồng Việt Nam một tháng – tức khoảng 25 USD).
Ngạn ngữ Anh có câu: “Chúng ta ăn để sống, chứ không phải sống để ăn”. Với mức điều hoà ít ỏi như vậy, quả là ăn cũng chẳng đủ, nói gì đến các nhu cầu “người” khác. Nào học hành, hoàn thiện, nâng cao tay nghề, dạy dỗ các cháu v.v... Nhu cầu “con” không đủ kéo theo bao hậu quả nhỡn tiền... Người cô ở lớp, lòng cô ở... đường, chợ, nơi mà “tiền đồ” hơn hẳn cái nghề dạy dỗ nhếch nhác này. Vì điều kiện nghiệt ngã như vậy nên bao năm nay, các cô bị các bậc phụ huynh gọi chệch thành... cô nuôi dạy... cọp. Còn lũ nhất quỷ nhì ma, độ tuổi thò lò mũi xanh cũng chẳng kém. Thay vì lời hát cô giáo như mẹ hiền, chúng đặt ngay cho các cô danh hiệu: Cô giáo như mẹ mìn... Đơn giản vì các cháu đến lớp cũng sợ các cô như sợ cọp (!). Bị ép ngủ, nhồi ăn, nghe la hét và bị ngồi bô cho tớí khi bố mẹ đón về. Một ngày dài dằng dặc lê thê... đối với cả cô và cháu: Ba thu dồn lại của cụ Tiên Điền Nguyễn Du cũng chẳng bằng.
Muốn thay đổi chất lượng, chỉ còn cách biến đổi hoàn toàn cuộc sống cho cả cô và cháu. Tiếc thay, lãnh đạo hợp tác xã phần đông xoá mù ở cổng trường tiểu học, hệ “đại học chữ to”, nên đã vô tình biến cái nghề nuôi dạy trẻ cao quý - vì lợi ích trăm năm trồng người - này thành nghề... cau có, trong những nghề cau có (!). Suốt ngày tiếp xúc với quần áo đái dầm, bưng bê, dọn dẹp, hầu hạ con thiên hạ mà bản thân mình vẫn nghèo khó túng quẫn! Mọi điều kiện vật chất tối thiểu chi dùng cho nhu cầu tự thân trong cuộc đời vẫn chỉ là “thoả mãn bần cố nông”, cơm ba bát, áo ba manh, đành quên bệnh tật đi mà sống như đồng bào đồng bằng sông Cửu Long hàng năm vẫn sống chung với lũ. Tiếc là ngoài các đòi hỏi cần thiết như ăn, mặc, ở , giao tiếp, xã giao, còn đủ mọi khoản phát sinh khác như sinh nhật, đám cưới, đám tang, giỗ chạp, tân gia v.v. Vì vậy làm sao cô có thể ngồi ôm cháu, nựng ru cho cháu ngủ bằng những lời ca tiếng hát ầu ơ, chứa chan sâu lắng hoặc tỉ mẩn hàng giờ hướng dẫn các cháu cách chơi, gấp giấy, cắt hoa, học múa hát được! (Chỉ có một số lượng rất nhỏ các trường ở nội thành Hà Nội, địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và một số ít khu vực thành phố, thị xã khác là tàm tạm về chất lượng).
Học sinh ở độ tuổi nhi đồng, vườn trẻ, mẫu giáo coi các cô như một khuôn mẫu, tấm gương sống động để nhìn vào, nghe theo, bắt chước. Người “trồng cây, ươm hạt” nghèo nàn cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần thì những cây con làm sao đủ tố chất dinh dưỡng cần thiết để vươn lên? Cả số tiền nhỏ giọt, thảm hại, ngán ngẩm đầu tư cho sự nghiệp “trồng người” nữa. Theo giấy tờ sổ sách - với đối tượng phổ thông (cơ sở và trung học) từ 15 -20 USD một người/năm. Vào được đại học, số tiền đào tạo là 40 USD một người/ năm. So với Mỹ - đất nước bị Đảng Cộng sản rêu rao là ít nhân quyền nhất, hay với Nhật cùng là “nền văn minh cầm đũa” lại chỉ băng 1/70 đến 1/100 (3.000- 4.000 USD). Nước chảy chỗ trũng, thử hỏi tài năng chất xám bao nhiêu năm trôi về đâu? Hay viễn cảnh: “Tò vò mà nuôi con nhện, đến khi nó lớn nó quện nhau đi, tò vò ngồi khóc tỉ ti, nhện ơi nhện hỡi nhện đi đằng nào?” - là điều tất yếu. Ở nông thôn hễ thi đỗ đại học là tìm mọi cách ở lại thành phố - ăn đậu, nằm chờ, nhờ cậy “gõ cửa trăm nơi” mong có cơ may đổi đời... Còn học sinh giỏi cấp quốc gia, quốc tế cứ có điều kiện du học nước nào là hầu hết tìm mọi cách ở lại định cư, nhập quốc tịch nước ấy để có cơ hội thăng tiến hơn… (Tất nhiên là loại trừ một số trường hợp con cả, cậu ấm thuộc diện 4C - CCCC (Con Các Cụ Cả), nhà đã sẵn cao, cửa đã sẵn rộng, ghế xa lông của một tổng công ty quốc doanh hay sếp trong một cơ quan nhà nước ngon lành nào đấy đã được thân phụ, thân mẫu đặt trước).
Sắn khoai khô cũng nuôi nổi con người, song trí tuệ nghèo nàn không bao giờ làm nên sự nghiệp. Với mức đầu tư nhỏ giọt, được chăng hay chớ, đào tạo lấy được, học để lấy bằng chứ không cần lấy kiến thức, nên ngay từ những năm tháng đi học đầu tiên... số vào đại học đã ít (thông thường 1 chọi 100 hoặc hơn) song 60% số sinh viên ra trường ở mức độ trung bình, yếu, kém phải dùng “nạng chống”, “đòn bẩy” để vượt qua mức xà quy định! Nào photocopy, sao chép, “phao bơi” trong giờ thi, nào quan hệ lòng vòng, cửa tiền cửa hậu, dùng quà, phong bì mua thầy, cô... 30% còn lại tìm cách quện nhau đi vặt hái khế ngọt ở quê người, xứ người. Quê hương là con đò nhỏ, trong tình trạng đất chật, người đông, tất cả mấy triệu người cùng chất lên... quả thực đò nhỏ cũng chòng chành, chao đảo. Việc “tay gậy tay bị khắp nơi tung hoành” tìm miền đất hứa để tránh cảnh “đắm đò” là điều dễ hiểu.
Giữa cuộc thi hoa hậu và học sinh giỏi toàn quốc, người được tài trợ, đầu tư triệt để hơn, trớ trêu thay lại là hoa hậu. Chỉ cần làm mấy động tác uốn éo, ưỡn ngực, liếc mắt, đưa tình khoe bụng gọn đùi thon, và khả năng ứng xử nông choèn, dở ẹt là được nhận giải thưởng 10 triệu (hoa hậu), 7 triệu (á hậu). Trong khi các đối tượng học sinh giỏi quốc tế, trường Amsterdam, đại học quốc gia nhân văn v.v... bao lần đoạt huy chương vàng, bạc, đem lại niềm tự hào đích thực cho nước nhà, từng học hành gầy người, sút cân, mắt mờ, óc nứt theo khẩu hiệu “Học! Học nữa!... hộc máu”, mà chiếc vi tính 5 triệu đồng lọai second hand, third hand, vẫn còn là điều... tính nhầm, mơ hão.
Xem ra cái sự học mới khốn khó làm sao. Ngay trong địa phận nước nhà đã đầy những nghịch lý mâu thuẫn, nhìn xa trông rộng ra nước ngoài để so sánh mình với họ còn thiệt thòi, phi lý đến đâu.
Kể từ Trung thu hoà bình đầu tiên, với mong muốn thế hệ con cháu phải học tập rèn luyện để đưa nước nhà sánh vai với các cường quốc năm châu. Cụ Hồ đã viết: “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu...”. Dân tộc Việt Nam vốn thông minh, anh hùng, điều ấy khó ai phủ nhận nổi. Song sự học hành về tổng thể hơn 60 năm qua mới chỉ là... người lùn sánh vai với người khổng lồ. Trong khi trẻ em trong độ tuổi đến trường ở Nhật Bản là 100%, Hàn Quốc 91%, Đài Loan và Singapore 96% thì ở Việt Nam (thống kê năm học 2005-2006) là 15,7 % với độ tuổi phổ thông trung học, 48,8% với trung học cơ sở và 30,1% với đối tượng vườn trẻ, mẫu giáo.
Từ ngày cơ chế thị trường mở ra, hiện tượng tái mù có chiều hướng tăng cao. Biết bao nữ giáo viên chịu cảnh “Đêm khuya thân gái dặm trường”, lên khai hoá văn minh cho đồng bào dân tộc, vào tận bản vận động cha mẹ học sinh cho con em vào phổ thông trung học. Nhiều phụ huynh trả lời “đúng như cái bụng mình nghĩ”: Cô giáo à! Học lớp 7 là chữ nhiều như lá cây trên rừng rồi, cần gì phải học nữa? Chỉ cần học đủ 4 phép tính, biết cái mặt chữ để xuống chợ bán măng, mua muối, khỏi bị người kinh bắt nạt thôi!
Với người kinh lên khai hoang kinh tế, sự trả lời còn dữ dằn hơn: “Từ xưa đến nay chúng tôi chỉ nhìn thấy mả của người chết đói chứ có mả của người chết dốt đâu? Đã kéo nhau lên tận “góc tăm tối cuối cùng” này, nơi ánh sáng văn hoá của Đảng, Bộ, Sở chỉ còn le lói... thì theo đuổi học hành, đóng góp mà làm gì? Cuối cùng lại là cảnh: Đời ông lặp lại đời cha, đời con cháu giống mãi đời cụ kỵ, quý khoai bắp như là sâm với quế... Không đứt bữa, ốm đau là được rồi ”...
Những câu trả lời khiến cô, thầy phải rơi nước mắt, lặng lẽ ra về, cúi đầu trong tiếng nấc, thương trò, thương mình, thương cho “sự nghiệp trồng người” èo uột của mình. Không kể trong năm học, các giáo viên chủ nhiệm vài ngày lại phát hiện ra một em trong lớp minh “bốc hơi” đâu mất. Đến tận nhà tìm hiểu gia cảnh, nguyên nhân thì được giải thích: “Cũng muốn thắt lưng buộc bụng, đắm đuối vì con lắm... nhưng không thể thắt được rồi cô ạ. Trăm thứ tiền đè lên đầu: Nào xây dựng trường, bảo hiểm xã hội, học phí, quỹ phụ huynh v.v… Tất cả trông vào hột thóc, hoa màu. Mùa rét còn được 5 - 6 ngàn đồng một cân cà chua, 3 ngàn đồng một cân bắp cải, chứ ấm lên một chút là cả gánh dưa chuột, sà lách không đủ tiền mua 5 cuốn sách giáo khoa cho các cháu. Trong khi nhà 5, 7 miệng ăn, đành đói chữ để khỏi chết đói vậy cô giáo ạ”. Với lại... nhiều người rơm rớm chỉ ra cánh đồng trước mặt: Mấy đứa lớn đã tốt nghiệp lớp 12 cả rồi mà nào có thoát cảnh ông cha nó ngày trước đâu, vẫn “ông lão đánh trâu đi bừa, là con ông lão ngày xưa... đi cày” đấy chứ!
Ở thành phố, thị xã nơi có thu nhập ổn định, phong lưu, sự học hành còn lắm khó khăn, đến mức các bậc phụ huynh phải nhại thành bài hát: Tiền gì mà cao cao thế? Xin thưa rằng học phí. Thu gì mà đến là cao, ôi chao! Cha mẹ còn nước đi tu... thì ở nông thôn chuyện đóng góp, nuôi nấng, còn bấp bênh vất vả đến đâu? Sẵn ù lì chậm chạp vai u thịt bắp - thân rùa đâu cũng là thân phận rùa... Họ đành để con vĩnh viễn trong cảnh “ngu si hưởng thái bình” hoặc “tái mù” trở lại, miễn sao kiếm đủ miếng ăn giữ vững tuổi thọ của họ nhà Rùa là được.
Chính vì lẽ đó, học sinh đến trường ở các tỉnh miền núi, phía Nam càng thấp hơn: Tại Minh Hải cứ 222 cháu trong độ tuổi đi học mới có một cháu được đến trường, tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng là 1/191, Lạng Sơn 1/172, Lào Cai 1/127.
Mức lương hợp đồng của giáo viên đã thấp, song trong biên chế cũng chẳng khả dĩ hơn. Ở các nước công nghiệp, tư bản, lương giáo viên bình quân từ 4 – 6.000 USD một tháng (giáo sư đại học thì cao hơn nhiều). Còn ở Việt Nam tổng cổng tất tật các khoản lương, thưởng, ăn trưa, qua bao lần điều chỉnh, cải cách, nâng lương, bù giá, vẫn không quá 100 USD một tháng. Trong khi xăng lên giá 12.000/lít, hơi đốt lên giá 180.000 đồng 1 bình, gạo, nước, điện đóm cái gì cũng tăng. Người nghèo nhiều con đường kiếm ăn, túng thì phải tính và thế là sẵn sự “năng động”, họ chẳng chịu sống mòn như kiếp giáo Thứ ngày xưa mà ngược lại, sẵn sàng mài mòn danh dự, nhân cách để sống, cốt kiếm đủ ăn và khẳng định mọi nhu cầu về nhà ở, đồ vật sử dụng của mình và gia đình giữa đồng loại. Cách dễ dàng phổ biến nhất là “tấn công” túi tiền cha mẹ học sinh. Nào học trên lớp, phụ đạo vào thứ bảy, chủ nhật còn tranh thủ dỗ các cháu vào buổi chiều taị nhà v.v. và v.v. Dù Bộ, Sở, Ban ngành đã ra sắc lệnh cấm, song vẫn chỉ là hiện tượng “bắt cóc bỏ đĩa, đánh trống bỏ dùi”.
Giáo dục là quốc sách, thầy chẳng ra thầy, trò chẳng thành trò, trong khi đầu tư nhỏ giọt, đào tạo được chăng hay chớ, nên những tiêu cực trong đội ngũ thầy cô cứ phát sinh bời bời, ngày càng đông học sinh không vào được đại học, trung cấp, hoặc ra trường không có công ăn việc làm, đã trở thành... “xách cuốc” (!).
Đường xa... nghĩ nỗi sau này mà... kinh! Buộc phải viết ra những điều này vì không thể yên tâm vào sự vững bước của thế hệ trẻ trong thời đại công nghiệp hoá năm 2020- 2025. Bởi trình độ học vấn chung trong cả nước hiện tại quá thấp. Lấy số trường lớp chia đều cho các đầu dân đạt khoảng lớp 7, lớp 8. Còn ở nông thôn chỉ lớp 2, lớp 3.
Dù thế nào cũng phải cúi đầu khấn lạy cụ Tiên Điền Nguyễn Du và câu thơ bất hủ của cụ, không chỉ nói riêng về thân phận nàng Kiều mà nói về cả tiền đồ, tương lai sự học hành, giáo dục của nước nhà trong thời đại cộng sản, thanh thiếu niên thế hệ Hồ Chí Minh này. Không biết cả trăm cái đầu lãnh đạo có ai nghĩ đến… “nỗi sau này” cho dân cho nước được nhờ không hay cứ ù lì tăm tối mãi, để dân tộc Việt Nam mãi mãi là dân tộc yếu và một dân tộc dốt như lời cụ Hồ nhận định? Cho dù thế giới đang bước vào kỷ nguyên tin học, thế hệ @ (a-còng) chiếm tới hơn nửa dân số cả nước đi chăng nữa?
Đường xa, quả thật không dám nghĩ tiếp nữa, xin nhường sự nghĩ này cho ông bộ trưởng mới - Nguyễn Thiện Nhân. Hy vọng những câu thơ bút tre về ngành giáo dục không bao giờ còn ngân vang trong óc người dân nữa:
Hoan hô bộ trưởng Nguyễn Minh
Hiển nhiên phát triển ngành mình… tụt hâu
Học trò xách cuốc đi đầu
Đít trâu làm đích, cắm đầu… theo trâu
Tây Hồ tháng 9/2006
Trần Khải Thanh Thuỷ
Subscribe to:
Posts (Atom)